Osho - Thế giới những Mật Điển
Chương 17: Vượt qua đau khổ tâm thức không trong sáng
Câu hỏi:
Làm sao thực tập không đặt để tánh
khí lên những người xung quanh; và không bị khủng hoảng hay áp lực chính mình?
Tại sao những nhà tâm lý miền viễn
tây không thành công với kỹ thuật tâm thức nghỉ ngơi?
Không pháp nào có quyền năng và sức
mạnh, ngoại trừ được điểm đạo trong dòng truyền thừa. Ðiều nầy có đúng hay
không?
Nếu sự đồng hoá là niềm thống khổ, tại
sao có nhiều kỹ thuật, phương cách áp dụng thực tập đồng hoá trở thành một với
sự vật?
Khi tánh khí phản kháng một đối tượng
hay ân thưởng một ai, đừng đặt để tánh khí lên người đó. Trong mọi nghi vấn,
hãy duy trì ngay tại trung tâm. Nhưng khi trải nghiệm với tánh sân hận, ganh tỵ...,
chúng ta cảm nhận bị cảm xúc đè nén. Ðiều nầy trở nên phiền muộn vì mặc cảm được
che đậy. Xin ông minh bạch cho dễ hiểu: Làm sao giải phóng những trói buộc phiền
não đè nén khi tu tập kỹ thuật?
Kiềm hãm hay
bộc lộ là hai mặt của đồng tiền nhưng cơ bản không gì khác biệt. Trong biểu lộ
và đè nén, còn có trung tâm khác. Tôi giận. Tôi đè nén. Tôi sắp sửa biểu lộ cơn
sân hận để chống đối. Giờ che đậy; nhưng cơn giận vẫn tiếp tục trạng thái phóng
chiếu dù đã biểu lộ hay đè nén.
Kỹ thuật nầy
không phù hợp cho sự đè nén mà nên thay đổi. Kỹ thuật nói: "Đừng phóng chiếu
đến đối tượng, cho dù như thế nào, nên nhớ bạn vẫn là nguồn của sự phóng chiếu."
Nhấn mạnh chủ yếu không phải ở hai điều kiện trên. Mục đích là nhận biết từ đâu
sân hận phát xuất. Khi bạn di chuyển đến trung tâm, nguồn gốc giận dữ, ganh tỵ
và tình yêu xuất phát.
Khi che dấu, bạn
không di chuyển về trung tâm mà đang vùng vẫy, bế tắc với sự bùng vỡ. Ví như, cơn
giận đang dâng trào, thông thường tôi có thể làm hai việc: Phát tiết cơn giận với
người đó hay kiềm hãm. Nhưng cả hai trường hợp đều là sự phiến diện, không phải
là nguồn gốc.
Kỹ thuật:
"Quên tất
cả một cách triệt để,
nhìn trực tiếp
vào năng lượng sân hận và lắng sâu,
trở về nguồn
gốc bản thể nơi năng lượng xuất phát.
Trong khoảng
khắc, bạn khám phá nguồn gốc và giữ ngay tại đó.
Ðừng nên hành
động bất cứ điều gì với giận dữ.
Hãy ghi nhớ, đừng
hành động hay cố kiềm hãm cơn giận"
Ðừng hành động
gì cả. Ðừng chạm đến cơn giận, mà sử dụng nó như con đường, như một phương tiện.
Chỉ cần lắng, lắng xuống thật sâu. Trong cơn giận, hãy nhận biết năng lượng sân
hận phát xuất từ đâu. Như thế, dễ dàng tìm thấy trung tâm. Có nghĩa là sân hận
được sử dụng như con đường để tìm về gốc, và bất cứ cảm xúc nào cũng có thể áp
dụng được.
Khi đè nén, có
nghĩa là từ chối hay phủ nhận khám phá nguồn gốc. Như thế, bạn chỉ vùng vẫy với
năng lượng và muốn giải tỏa hay phóng thích nó. Bạn có thể đè nén nhưng sớm hay
muộn nó cũng phát tiết vì không thể tranh đấu với năng lượng. Năng lượng sân hận
phải được biểu lộ. Do đó, bạn không tỏ thái độ giận anh A, nhưng trút hết vào
anh B hoặc anh C. Bất cứ khi nào bạn tìm thấy ai yếu kém, bạn đều phát tiết.
Nếu đè nén, bạn
sẽ cảm thấy mình bị đốt cháy, căng thẳng, nặng nề, yếu đuối và mất bình tĩnh. Vậy
hãy nên phát tiết, vì bạn không thể nào tiếp tục kiềm hãm. Chắc chắn năng lượng
sẽ rơi rớt nơi nào đó. Nếu không, bạn sẽ luôn lo lắng, và không thể nào an tâm.
Vậy kiềm hãm,
thực sự không giúp ích gì cả, chỉ là hình thức làm chậm lại sự phát tiết. Đơn giản
bạn chỉ tạm thời đình công. Ví dụ, giận ông xếp, bạn ghìm cơn sân hận vì có
giai cấp. Bạn chỉ đè nén để chờ cơ hội hướng về ai đó chẳng hạn vợ hoặc người
giúp việc để bùng nổ... Hay trên đường về nhà, sẽ biểu lộ khi có cơ hội và tìm
đủ nguyên nhân để phát tiết.
Con người là
loài thú cao cấp. Vì thế sẽ hợp lý hóa mọi vấn đề, sẽ tìm điều gì đó cho dù rất
nhỏ nhặt, không đáng kể. Nhưng vấn đề đã trở thành tối hậu, có lý để chỉ trích.
Chỉ vì cần một nguyên nhân, cần một sự kiện nào đó để phát tiết.
Như vậy đè
nén không có nghĩa gì cả. Đó chỉ là sự phòng thủ, dời lại nhiều tháng, nhiều
năm hay nhiều kiếp. Nhưng trước sau gì, bạn cũng phải biểu lộ, phải phô diễn trạng
thái năng lượng sân hận.
Kỹ thuật nầy
hoàn toàn không hướng dẫn bạn biểu lộ hay đè nén. Không. Kỹ thuật để sử dụng
tánh khí, năng lượng như con đường dâng hiến khám phá, chiêm nghiệm sâu lắng trong
bản thể nội tại.
Gurdjieff thường
sáng tạo những trường hợp năng lượng giận dữ tác động lên, ganh tỵ hay bất cứ một
tánh khí nào. Ðó là sáng tạo hiện tượng, và bạn thì không ý thức được những việc
gì đang xảy ra.
Gurdjieff ngồi
với các đệ tử. Khi bước vào, bạn không ý thức được tiến trình diễn biến những
gì đang xảy ra. Nhưng họ sẵn sàng tạo cơn phẫn nộ nơi bạn. Họ sẽ có thái độ bằng
cách cư xử để bạn có thể điên tiết.
Ai đó nói lên
vài lời, tức thì cả nhóm tỏ thái độ bất kính. Bạn cảm thấy khó chịu. Bất ngờ
cơn giận xuất hiện. Bạn như ngọn lửa bừng cháy sẵn sàng nổ tung. Gurdjiff nhìn
thấy lúc nào bạn có thể lắng xuống hay bùng vỡ. Khi đạt đến điểm đỉnh, bạn cần
nổ tung và tàn phá, tức thì ông lên tiếng: "Nhắm mắt lại, ngay tức thì ý
thức trọn vẹn cơn sân hận và quay trở lại trạng thái đầu tiên."
Chỉ khi nào
phát hiện như thế là hiện tượng sáng tạo, vì không một ai thích thú nhục mạ bạn.
Đó chỉ là những màn kịch, một vở kịch tâm lý. Khi cơn tức giận được nâng lên đến
đỉnh cao và nếu đơn giản nhận biết chỉ là màn kịch, năng lượng sẽ lắng xuống.
Nhưng nó không thể lắng xuống lập tức mà cần có thời gian. Bấy giờ, có thể chuyển
hướng năng lượng về gốc, nó sẽ giúp bạn lắng sâu xuống điểm xuất phát và bạn có
thể kết nối với nguồn năng lượng nguyên thủy.
Ðây là một
trong những kỹ thuật thành công nhất trong thiền định. Có thể sáng tạo với bất
cứ tánh khí nào, vì tính khí thường hiện diện tại trung tâm và chúng ta nên sử
dụng chúng để đi vào thiền định.
Khi quên hết
mọi đối tượng, khi không còn bị áp lực bởi bất cứ một điều kiện gì, có nghĩa là
năng lượng đang di chuyển để lắng xuống nơi nó xuất hiện, tất cả nguồn năng lượng
đều xuất phát từ gốc, và chẳng bao lâu bạn trở về đích.
Nếu bạn có khả
năng kết hợp và gom năng lượng về gốc, bạn sẽ là chủ nhân của thân vật lý, tâm
thức và năng lượng. Bạn làm chủ thân, khẩu, ý. Bạn trở nên là vị thầy của chính
mình. Bấy giờ, bạn không còn lãng phí năng lượng nữa.
Chỉ cần một lần
nhận biết làm sao năng lượng trở về trung tâm. Ở đó, không cần thiết biểu lộ
hay đè nén. Ngay từ bây giờ, bạn không còn sân hận. Khi tôi nói điều gì làm bạn
giận, hãy tự tra vấn: "Từ đâu nguồn năng lượng xuất hiện ?"
Khoảnh khắc
trước khi chưa giận, năng lượng vẫn tiềm ẩn trong bạn. Nếu nguồn năng lượng lần
nữa quay về gốc, bạn sẽ trở lại trạng thái ban đầu.
Ghi nhớ!
Năng lượng giận
dữ, yêu thương hay ganh tỵ; đơn giản tất cả chỉ là năng lượng và hoàn toàn
trung tính. Buồn, thương, giận, ghét, dục... đều giống nhau. Vì tính khí được
hình thành bằng năng lượng cùng tính chất. Hay có thể nói. Năng lượng chỉ là một
và từ đó biến hoá thành đủ mọi cảm xúc tùy theo tính khí.
Bạn chỉ là một
hình thể, tâm trí chỉ định cấu tạo hình thể, và năng lượng chuyển động trong dạng
thức đó. Vậy ghi nhớ, nếu yêu sâu lắng, sẽ không còn năng lượng để giận dữ, nếu
không có tình yêu, bạn có rất nhiều năng lượng để giận dữ và sẽ tìm kiếm nguyên
nhân để tạo thành cơn giận. Nếu năng lượng chuyển qua tính dục, bạn sẽ bớt hung
bạo, nếu năng lượng không qua tính dục, bạn sẽ hung hăng.
Ðó là lý do
trong quân đội không chấp thuận quan hệ tính dục. Nếu không, quân đội trở nên bất
lực, không thể chiến đấu. Ðó là lí do tại sao bất cứ nền văn minh nào không có
sự chiến đấu thường dễ bại trận. Vì xã hội phát triển sẽ bắt đầu chăm sóc về
tính cách cá nhân cần thiết, trong đó có tính dục.
Bạn dễ gây
chiến tranh khi tính dục bị hụt hẩng. Bạn muốn chiến tranh, khi từ chối hay đè
nén tính dục; hoặc sáng tạo những thái độ chống lại tính dục. Chúng ta gọi những
bậc thánh là những bậc thánh, vì họ tuyên truyền hòa bình và chống lại tính dục.
Họ sáng tạo môi trường và những điều kiện chống lại tính dục, đồng thời kêu gọi
thế giới hòa bình. Quả thật là vô lý.
Bụi đời, hippy
có thể được xem chính xác với khẩu hiệu: "Làm tình, không làm chiến tranh."
Ðiều đó có thể đúng. Nếu có thể yêu thương mọi người nhiều hơn, bạn không thể tạo
ra xung đột hay gây hấn.
Ðó là lý do gọi
Sannyasins, những người kiềm hãm tính dục. Họ sẵn sàng nổi giận và phẫn nộ
không cần điều kiện nào cả. Bạo động, phẫn nộ, lúc nào cũng chờ đợi để nổ tung.
Toàn bộ năng lượng bị đè nén, ngoại trừ năng lượng rơi trở về nguồn gốc, trung
tâm nguyên thủy.
Nếu năng lượng
dục tính di chuyển đến trung tâm, bạn giống như đứa bé. Những đứa bé có nhiều năng
lượng tính dục hơn bạn, nhưng vẫn trọn vẹn tại trung tâm chưa vận hành đến thân
vật lý.
Năng lượng sẽ
hoạt động khi cơ thể sẵn sàng và chuẩn bị những tuyến hạch vận hành. Thân vật
lý trở thành điều tự nhiên cho nguồn năng lượng chuyển động. Tại sao những đứa
trẻ vô tư và ngây thơ? Vì năng lượng nguồn chưa bị phân tán.
Cũng như thế
sẽ xảy ra cho người tỉnh thức. Toàn bộ năng lượng chảy về gốc; con người trở về
trạng thái đứa trẻ thơ ngây. Ðó là lý do Jesus nhấn mạnh: "Chỉ những đứa
trẻ hồn nhiên mới có thể bước vào đất Chúa."
Có nghĩa gì
đây? Theo khoa học là toàn bộ năng lượng đi ngược về trung tâm nguồn cội. Nếu
biểu lộ, năng lượng sẽ phân tán ra ngoài, khi năng lượng biểu hiện là bạn đang
sáng tạo thói quen; có nghĩa năng lượng bị rơi rớt.
Khi đè nén, năng
lượng không trở về gốc cũng không phân tán. Nó bị kiềm hãm, và năng lượng đang
treo để chờ đốt cháy. Ðó là lý do, nếu thực sự giận dữ, bạn cảm thấy được phóng
thích, hay cảm nhận vừa mất đi cái gì đó.
Nếu thông qua
dục tính, bạn cảm thấy nhẹ bớt. Tại sao nhẹ bớt? Vì năng lượng dồn nén đang âm ỉ
cháy. Tâm trí bạn đầy sương khói và mây mù. Bạn cần quăng đi, cần loại bỏ hay
hài hòa để năng lượng quay trở về nguồn gốc nguyên thủy. Và chỉ có hai con đường
lựa chọn:
Nếu đi ngược
trở lại bản thể, năng lượng là vô hình. Không hình tướng, và không thể định
hình. Ví như điện, bạn không thể thấy. Nhưng nó hoạt động qua dạng thức trung
gian như: bóng đèn hay cây quạt chẳng hạn. Tất cả mọi hình thái đều mượn hình
thức hoạt động cơ khí để minh chứng.
Giận, tính dục,
tình yêu, căm ghét đều là công cụ. Khi năng lượng vận hành vào dao động của căm
ghét, lập tức trở thành hận thù. Và khi năng lượng chuyển động quay về gốc, nơi
không định danh hay hình tướng. Nó là năng lượng vô hình tướng và là năng lượng
thuần khiết.
Năng lượng
hoàn toàn ngây thơ và trong sáng như trẻ con vì vô tướng, và hoàn toàn trong
sáng. Ðó là lý do Ðức phật trông vô tư như trẻ thơ, vì nguồn năng lượng hoàn
toàn vận hành về gốc.
Ðừng bộc lộ, như
thế bạn sẽ lãng phí năng lượng. Cũng đừng kiềm hãm, vì bạn sẽ sáng tạo sự giam
hãm hiện tượng âm ỉ đốt cháy mà nó cần phải phóng thích. Như vậy, phải làm sao
bây giờ?
Kỹ thuật nói:
"Ðừng có
bất cứ hành động nào với tánh khí, chỉ cần nhẹ nhàng và đầy đủ sáng tỏ, mang
năng lượng quay về nguồn nơi cảm xúc xuất phát. Khi tính khí là bốc cháy, con
đường sẽ rõ ràng và sáng tỏ năng lượng xuất hiện bên trong. Bạn có thể vận chuyển
dễ dàng, rất tuyệt vời và không thể tưởng tượng được.
Chỉ cần một lần,
bạn sẽ khám phá chìa khóa hướng dẫn làm sao mang năng lượng về nguồn. Bạn sẽ có
phẩm tính khác trong chính bạn, bạn không còn lãng phí năng lượng. Năng lượng
hao tổn thì quả thật ngu xuẩn."
Ðức Phật nói:
"Khi nào
giận dữ, chống đối, có nghĩa là tự trừng phạt mình trong địa ngục tâm thức, vì
hành động bất chính hay tiêu cực với người khác." Họ nhục mạ và bạn tự trừng
phạt mình vì giận dữ. Thế là lãng phí năng lượng, là khờ khạo và ngu xuẩn. Thế
nên, hãy lắng nghe lời của đức Phật, Mahariva, Jesus...
Chúng ta bắt
đầu bóp, và siết chặt, và đè nén năng lượng khi nghĩ rằng điều nầy không tốt đẹp.
Đó là ngu xuẩn để giận dữ. Vậy phải làm sao bây giờ? Kiềm hãm đừng giận dữ; sẽ
lôi kéo, nhốt kín mình để che dấu cơn giận. Nhưng như thế, có biết bạn đang ngồi
trên thùng thuốc súng sẽ nổ tung vào bất cứ một thời điểm nào.
Nếu dồn nén
có nghĩa là tự hành hạ mình trong đau khổ, và ngày nào đó, bạn sẽ làm tổn
thương người khác. Thôi thì hãy di chuyển trở lại nguồn, năng lượng rơi rớt tự
nhiên quay về gốc. Quay trở về trạng thái vô hình tướng.
Bạn sẽ cảm nhận
sức mạnh đầy dũng mãnh, nhưng không còn trong trạng thái giận dữ. Có nghĩa là cảm
nhận năng lượng của sức sống. Bạn trở nên sự sống, mãnh liệt với đời sống mà
không có hình tướng và mọi người cảm nhận lập tức sức mạnh vô tận xuất hiện
trong bạn.
Bất cứ ai đến
với đức Phật hay Krisna, bất ngờ, năng lượng người ấy sẽ thay đổi môi trường vì
tiềm lực sức mạnh của các ngài. Trong khoảng khắc, bạn đến gần hơn, gần hơn và
bị hút. Nên nhớ không một ai muốn cuốn hút bạn cả, không một ai cố gắng làm gì
cả. Ðơn giản các ngài chỉ hiện diện.
Có thể cảm nhận
như có ai đó thôi miên bạn. Không, đơn giản các ngài chỉ hiện diện. Như Buddha,
toàn thể năng lượng trở về vô tướng, không dạng thức. Toàn bộ năng lượng đã chảy
về nguồn, và nó chính là lòng từ.
Ðức Phật giác
ngộ trước khi ngài tỉnh thức, ông có năm người bạn đồng tu. Họ là những tu sĩ
khổ hạnh. Khi đức Phật đến cực điểm khổ hạnh, đạt đến tột đỉnh tự hành hạ bằng
cách hành xác, nhận lấy đau khổ thân vật lý làm kỹ thuật; ngài áp dụng rất nhiều
kỹ thuật hành xác để mong khám phá những điều mới lạ; cho đến khi phát hiện
toàn bộ tiến trình khổ hạnh là sai lầm và vô nghĩa; không thể đưa đến giải
thoát thực tại; nên ngài quyết định từ bỏ con đường khổ hạnh.
Năm vị sa môn
đồng tu khổ hạnh lập tức rời bỏ ngài và nói rằng: "Gautama đã bỏ cuộc, ngài
không còn là một vị khất sĩ khổ hạnh chân chính." Khi đức Phật đi đến sự tỉnh
thức toàn diện. Ý nghĩ đầu tiên là giúp năm người bạn đồng tu nhận ra sự sáng tỏ
chân thực.
Khi xưa, họ
là những người theo ngài. Bây giờ, ngài phải đến với họ. Ngài cảm thấy có trách
nhiệm phải tìm và nói lên những gì đã nhận thấy. Thế là ngài quyết định cất bước.
Ngài đến
Sarnath vào buổi chiều, mặt trời vừa lặn và năm vị sa môn đang ngồi trên đồi nhỏ.
Họ trông thấy đức Phật từ xa và bảo nhau: "Gautama Buddha thất bại, Gautama
Siddharta, người từ bỏ con đường tâm linh khổ hạnh đang đi về phía chúng ta. Ðừng
chú ý hoặc tôn kính dù một cử chỉ hành vi sùng kính thông thường nhất. Tất cả
chúng ta nên nhắm mắt lại."
Khi đức Phật
đến gần và gần hơn nữa. Năm vị sa môn có cảm giác thay đổi trong tâm thức. Họ
không thể yên lặng và hoàn toàn bị dao động. Khi đức Phật đến gần, bất ngờ tất
cả đểu mở mắt và quỳ lạy dưới chân ngài.
Ðức Phật nói:
"Tại sao các ông làm như thế? Các ông quyết định không tôn kính. Thế thì sao
lại có hành động như thế?" Họ nói: "Thực sự chúng tôi không làm gì cả,
mọi việc xảy ra một cách tư nhiên. Ngài tu tập được gì mà nguồn lực bên trong
như nam châm thu hút chúng tôi. Ngài đã làm gì? Ngài dùng huyền thuật gì để
thôi miên chúng tôi?" Ðức Phật nói: "Ta không làm gì cả. Nhưng tất cả
năng lượng trong tôi đều ở ngay trung tâm."
Ðó là lí do tại
sao có nhiều người phản đối đức Phật và Mahariva qua nhiều thế kỷ. Họ cho rằng:
"Con người nầy không tốt. Ông ta đang thôi miên nhân loại." Không một
ai thôi miên ai cả mà chính bạn tự thôi miên mình. Khi năng lượng rơi về nguồn
gốc nguyên thủy, năng lực trung tâm tạo thành sức thu hút. Ðây là kỹ thuật khôi
phục nguồn năng lượng trung tâm tái hoạt động.
Câu hỏi thứ hai:
"Hôm qua, ông nói kỹ thuật thiền
định của tâm thức nghỉ ngơi rất quan trọng. Nhưng sao nơi miền viễn Tây, cả
trăm người Freudians và Jungians, những nhà tâm lý học cùng những nhà phân tích
tâm lý đang thực hành kỹ thuật nhưng họ không đạt được kết quả khả quan trong
khi cố gắng chuyển hoá trạng thái. Xin hỏi nguyên nhân nào và tại sao họ không
thành công?"
Rất nhiều sự
kiện. Ðầu tiên, tâm lý học miền viễn Tây chưa tin tưởng hay có niềm tin vào con
người. Họ chỉ tin vào lý trí và thức phô diễn. Nhưng không gì có thể vượt ra khỏi
sự chi phối của thức phô diễn, và đó chính là chướng ngại.
Nếu không vượt
khỏi tâm trí, bất cứ điều gì thực tập cũng không có sự giúp đỡ nào để trở con
người chân chính. Nên nhớ chỉ ở tại cực điểm, kỹ thuật mới có thể giúp bạn trở
lại con người bình dị, nhưng chỉ ngay tại cực điểm.
Và bình dị có
nghĩa là gì? Sự bình dị là gì? Chỉ là yếu tố quân bình hay trạng thái trung
tính. Nếu tự tạo cho mình mức quân bình thì không phải bình dị, trạng thái bình
thường có nghĩa là trống không. Ðơn giản bạn hài hòa một cách tự nhiên, tương
tác với mọi vật hay với mọi người.
Vì thế, tâm
lý học miền viễn Tây chỉ làm được một điều: "Khi nhận ra mình không đúng;
tức thì tâm lý học phương Tây tạo môi trường để hòa giải với mọi người";
không cần nghi ngờ, hay đặt câu hỏi. Vì ngay chính mọi người cho dù tốt hay xấu;
đồng ý hay không cũng không phải là vấn đề để giải quyết.
Ðối với tâm
lý miền viễn Đông, đám đông không phải là tiêu chuẩn thuộc về chân lý. Nên nhớ,
sự phân biệt của những nhà tâm lý miền viễn Đông, công chúng không phải là điểm
chuẩn cho sự sống.
Xã hội tự nó
đã yếu đuối, bệnh hoạn. Vậy điều gì làm tiêu chuẩn cho chúng ta? Ðối với chúng
ta, đức Phật là tiêu chuẩn. Ngoại trừ chuyển hóa như ngài, còn không, bạn vẫn
là con bệnh trầm kha.
Phương Tây lấy
xã hội làm điểm tiêu chuẩn, vì họ xem đức Phật không phải là chân lý. Nếu không
nhận ra ngài là trạng thái nội tại, sẽ không thể tỉnh thức. Chỉ khi trạng thái
nội tại bừng sáng, tràn đầy năng lượng sức sống, đó chính là giác ngộ.
Miền viễn Tây
chỉ là nhà trị liệu như thực phẩm hay thuốc men, một phương tiện cố gắng giúp đỡ
các bạn điều chỉnh, sắp xếp lại, tạm thời ổn định những xáo trộn hay hỗn loạn nhưng
không thể giúp chuyển hoá tâm thức.
Nỗ lực của miền
viễn Đông là làm thế nào để chuyển hoá tâm thức vì thực sự chúng ta không có bệnh
rối loạn thần kinh hay tâm thần. Nên nhớ. Không có bệnh điên. Nên nhìn xa hơn, tâm
trí chính là con bệnh cần phải nhổ tận gốc.
Theo miền viễn
Tây, tâm thức không phải là căn bệnh. Tâm thức chính là bạn, do đó, họ phủ định
và bản ngã ngày càng củng cố. Vì thế, tâm thức lúc nào cũng có thể mạnh, tốt
hay yếu đuối và bệnh hoạn, có nghĩa là hoàn toàn bất định.
Ðối với chúng
ta, tâm trí là bệnh truyền nhiễm, thức phô diễn dứt khoát không thể mang lại điều
tốt lành. Không hiểu quan điểm nầy, bạn không bao giờ sạch. Bạn vẫn yếu đuối và
có thể phục hồi... Nhưng không bao giờ sáng trong và tinh khiết.
Vậy người
bình thường sống theo quan điểm xã hội không thể tinh sạch, vì kẹt trong vòng
đai. Họ bệnh hoạn trong sự bao bọc ngăn cách. Người được xem là kỳ dị, nhưng lại
rất bình thường có thể vượt vòng đai tù hãm của tâm thức. Ðó là sự khác biệt giữa
người thuộc về phẩm chất hay chất lượng.
Con người
điên loạn trong căn nhà khủng hoảng và không hề khác biệt về phẩm chất. Có thể
người này điên loạn nhiều hay ít hơn người kia một chút. Nhưng tất cả đều trong
vòng đai hạn hẹp của tù đày và nô lệ.
Ðối với chúng
ta, con người phải vượt qua thức phô diễn. Nếu không sẽ đồng nghĩa với điên loạn.
Vì tâm thức là nguồn gốc của sợ hãi và khủng hoảng. Vậy nên để tâm thức thư giãn.
Nhất là nên biết một điều là vượt qua, vượt qua thầy dùi và đừng tin vào những
gì thức phô diễn nói.
Phương tây cũng
rất cố gắng áp dụng kỹ thuật buông xả, nhưng chỉ với mục tiêu là điều hoà hay
điểu chỉnh lại tâm trí, không có sự vượt qua đối thoại hay độc thoại để dừng dứt
tư tưởng.
Freud cho rằng:
Con người
không nghỉ ngơi thì không thể hạnh phúc. Mỗi một giây phút trôi qua với những
người không thư giãn không thể có niềm vui. Và khi không còn phiền muộn, buồn bã
hay thỏa mãn, có nghĩa là bằng lòng và biết đủ.
Bạn không thể
có niềm vui sướng, an lạc. Tại sao? Vì tâm lý học cho rằng: Niềm hạnh phúc là sự
dối trá của bản năng tự nhiên hay hạnh phúc là sự lừa dối trong trạng thái động
vật.
Nhưng con người
không như thế.Lý trí sẽ can thiệp và bạn có thể đánh mất sự thật và đồng hóa với
loài thú. Bạn có thể gọi đó là hạnh phúc nhưng không bao giờ thực sự hạnh phúc.
Đó là mâu thuẫn nội tại. Nếu là loài thú, có thể bạn sung sướng, thỏa mãn trong
cái không ý thức. Nếu cố gắng ý thức, không thể nào có hạnh phúc vì lương tri
lúc nào cũng xen vào. Con người không thể đánh mất lý trí, cũng không thể sống
với lý trí và suy luận. Ðó là vấn đề, có nghĩa là không thể có niềm vui và hạnh
phúc dựa theo những luận cứ Freud đưa ra.
Khôn ngoan cực
kỳ, bạn sắp đặt chương trình cho cuộc sống phải như thế nào. Nhưng sự sắp đặt
đã làm mất hạnh phúc. Ðó là tính chất hoàn toàn tiêu cực. Tâm lý miền viễn Đông
hay tôn giáo nhận chân cuộc sống phải hoàn toàn tích cực. Bạn hạnh phúc, không
phải đơn thuần là hạnh phúc vì đó chỉ là hiện tương. Chúng ta cần thẩm thấu hơn
nữa trong trạng thái phúc lạc vĩnh hằng.
Tâm lý miền
viễn Đông cho rằng: "Nếu không cảm thấy vui. Cứ để năng lượng đang tiềm ẩn
lộ dạng. Khi năng lượng được giải tỏa; bạn sẽ hạnh phúc hay không còn cảm giác
phiền muộn."
Thực sự con
người không nhìn thấy gì cả. Tuy vẫn nhận định được ánh sáng hay bóng tối. Họ
nhìn bằng mắt nhưng hình như con mắt không cần thiết. Họ lạm dụng con mắt và
dùng nó để phán xét qua dạng thức bên ngoài.
Quên mất đôi
mắt chỉ là công cụ. Có lẽ người mù cần đôi mắt hơn; vì họ chỉ nhìn thấy tất cả
chỉ là màu đen và chẳng chút khái niệm nào về ánh sáng. Bởi vì ngay cái nhìn đã
là bóng đêm.
Nếu cảm giác
buồn qua cái nhìn bằng mắt, và nếu thấy buồn qua cảm nhận. Thực sự, bạn không
thể có cảm giác vui và chắc chắn không thể có cảm giác buồn. Ðó là hai mặt của
một vấn đề.
Bạn có khả năng
hạnh phúc trọn vẹn nhưng tâm trí lại không cho phép. Thức phô diễn của bạn cho
rằng: "Nếu sống với chiều hướng tiêu cực và đồng hóa mình với thân vật lý,
bạn sẽ hạnh phúc." Freud cũng đồng ý quan điểm nầy. Nếu bạn đi xuống sẽ
hoàn toàn quên mất lương tri.
Nếu ngộ nhận
và đồng hóa mình như loài thú chỉ biết thỏa mãn thân vật lý, bạn sẽ hạnh phúc, nhưng
không bao giờ nhận ra: Tâm trí không hề vui, vì thức phô diễn luôn quấy nhiểu
và lôi cuốn. Thân vật lý thỏa mãn tính dục và có thể cho là hạnh phúc. Nhưng
tâm trí luôn nhiễu loạn, căng thẳng và khủng hoảng.
Freud nhận định:
"Nếu sống trong chiều hướng đi xuống, bạn đồng hóa với loài thú, bạn có thể
có hạnh phúc tạm bợ nhưng không ý thức. Và nếu sống trong suy luận, có thể nhận
biết nhưng không có niềm vui và hạnh phúc của thân vật lý." Miền viễn Đông
chú trọng vào thực hành: "Chỉ cần vượt qua thức phô diễn, bạn sẽ hạnh phúc
miên viễn và đầy đủ ý thức."
Con người ở
khoảng giữa, thấp hơn là sự sống của loài thú. Bạn thử đi vào rừng ngắm nhìn những
loài động vật, chúng không ý thức gì về hạnh phúc nhưng bạn có cảm giác chúng
thật hạnh phúc.
Thử ra biển
vào buổi sớm mai, hoặc vào vườn hoa và lắng nghe tiếng hót của những con chim.
Tuy chúng không biết tiếng hót nó có ý nghĩa gì, nhưng bạn lại có cảm giác hạnh
phúc. Và thực sự bạn chưa bao giờ hót được như thế. Mắt chim không có mây mù, nó
trong sáng và hồn nhiên và hạnh phúc nhưng bạn thì không.
Đồng hóa với
thân, bạn mới cảm thấy tạm thời hạnh phúc; hay cần vượt qua để trở về tính chất
linh thiêng và sống trong sự vĩnh hằng vì bạn luôn luôn căng thẳng, khủng hoảng
vì thức phô diễn không bao giờ kết thúc.
Giống như sợi
dây nối liền giữa hai thực thể, thân và tâm. Bây giờ, bạn trên sợi dây như Nata,
người bị trói buộc. Bạn không thể bình tĩnh; vì thế phải chọn một trong hai vấn
đề: Đi xuống hay đi lên vì không thể duy trì trên dây. Có nghĩa là phải rời khỏi
sợi dây và chỉ chọn một trong hai chiều hướng: Trở lại con đường cũ hay hướng về
con đường tiến hoá và vượt qua. Tâm thức là sợi dây, là sự trói buộc nên bạn bị
giới hạn và mất quân bình.
Mỗi một giây
phút đều lo lắng hay giận dữ. Toàn bộ đời sống là khủng hoảng và căng thẳng. Ðó
là lý do tâm lý miền viễn Tây thành công trong việc sáng tạo cho bạn cảm thấy
bình thường trong cuộc sống; nhưng hoàn toàn thất bại để chuyển hóa các bạn trở
về con người chân chính và tự nhiên.
Bây giờ có
khuynh hướng mới và người ta nghĩ rằng: Thực sự phương Đông sâu sắc và thẩm thấu
hơn miền viễn Tây. Phương Tây đã thống trị phương Đông bằng đường lối rất thô bạo.
Nhưng phương Đông có con đường riêng biệt. Con đường rất vi tế và là con đường
của sự yên lặng.
Và tư tưởng
phương Đông ăn sâu vào lòng người phương Tây một cách sâu sắc, nhẹ nhàng không
cần bạo động, tranh đấu hay xung đột. Sớm muộn gì, tâm lý học miền viễn Tây sẽ
diễn đạt và phát huy tư tưởng về sự chuyển hoá năng lượng và tâm thức. Làm như
thế nào để có thể vượt qua lý trí?
Buông xả có
thể giúp các bạn trong hai cách: Nếu muốn thể hiện tâm trí thư giãn thì kỹ thuật
giúp bạn. Nhưng mục tiêu phải là chuyển hóa năng lượng. Sự chuyển hoá tâm thức
phải hướng về tâm thức. Bạn càng buông bỏ những ràng buộc càng nhẹ lòng và kỹ
thuật có thể giúp đỡ bạn.
Tất cả những
kỹ thuật có thể áp dụng cho tâm thức bình an, và kỹ thuật có thể sử dụng như
phương tiện đi vào tâm thức nghỉ ngơi và thức phô diễn không còn cơ hội hoạt động.
Vậy có hai dạng thức yên lặng. Một là tâm thức vẫn hiện diện nhưng thức hoàn
toàn yên lặng. Hai là sự vắng lặng hoàn toàn, thức không còn hiện diện. Và sự
yên lặng này là vắng bặt tất cả mọi tư tưởng.
Bạn phải hiểu
sự bình an của tâm thức: Thức vẫn còn đó nhưng không còn điên loạn và khủng hoảng.
Sự nhiểu loạn đã giảm cường độ. Thế thôi. Miền viễn Tây cần quay về hệ thống
siêu hình học. Như thế mới có thế chuyển hóa con người. Có nghĩa là cần trở về
sự minh triết nền tảng.
Lễ điểm đạo
quan trọng hơn kỹ thuật. Khi vị thầy làm lễ, ông quan sát và khám phá bạn thuộc
dạng thức nào. Bạn đã huân tập qua nhiều kiếp như thế nào và đến điểm nào bạn đứng
lại, và trung tâm lực nào hoạt động hay ngưng trệ. Ông sẽ quyết định phương
cách và chọn kỹ thuật để bạn thực hành. Gần như riêng biệt và độc lập. Nên nhớ,
phương pháp không quan trọng mà chính bạn mới thực sự quan trọng.
Bạn thực hành,
học quan sát, phân định, quá khứ, thức, thân xác. Tất cả đều được quan sát đến
tận cùng. Bạn cảm nhận sâu sắc về từng chi tiết nhỏ. Bạn đang ở đâu? Vì khởi đầu
hành trình bắt đầu từ những điểm đó. Và không kỹ thuật nào có thể giúp đỡ ngoài
chính bạn.
Khi chọn
phương pháp riêng biệt cho bạn. Vị thầy quan sát sự thay đổi của bạn trong thực
hành và ông sẽ gia giảm khi cần thiết, để kỹ thuật phù hợp hơn. Và sau đó, ông
làm lễ điểm đạo và cho bạn một phương pháp hay kỹ thuật mới.
Và cho dù bạn
điểm đạo thực hành bất cứ kỹ thuật nào, bạn phải giữ gìn như nấm mộ, phải chôn
kín tận đáy lòng. Không được nói với bất kỳ ai; dù là người tin cậy nhất. Vì
đây là sự bí mật của riêng bạn và chỉ phù hợp với bạn.
Nói với ai về
những vấn đề, không giúp gì cho bạn mà có thể làm hại mình. Nó phải là một bí mật
tuyệt đối. Ngoại trừ sau khi thành tựu và vị thầy xác định: "Bây giờ, bạn
có thể điểm đạo cho người khác."
Không được
bàn đến cho dù một chút, không một tiếng, không thể hở môi ngay cả chồng, vợ
hay cả người thân. Không. Hoàn toàn không. Phải tuyệt đối bí mật. Vì pháp được
chọn và ban cho bạn chỉ phù hợp với bạn và dùng để vận hành năng lượng trong bạn.
Nhưng cũng không hẳn là riêng biệt. Sự riêng biệt tùy theo từng cá thể thực
hành với một vài khác biệt nhỏ để có thể phù hợp với biệt nghiệp.
Tôi đang nói
gì? 112 kỹ thuật. Chúng là những phương pháp tổng quát cho mọi người. Tất cả những
phương pháp nầy đã được áp dụng, và là hình thức chung cho các bạn làm quen với
Mật điển. Bạn có thể thử, nếu kỹ thuật nào phù hợp, có thể tiếp tục. Nhưng cần
được điểm đạo nhập dòng. Hay nói cách khác, bạn nên có một vị thầy đầy đủ sự trải
nghiệm.
Ðiểm đạo là vấn
đề thuộc về cá nhân và riêng biệt giữa thầy và trò. Ðó là sự chuyển hóa rất bí
mật và nhiều việc ẩn tàng trong buổi lễ. Vị thầy thường chờ đợi và trao cho bạn
pháp vào đúng thời điểm và pháp sẽ đi sâu vào vô thức.
Khi tôi nói, tâm
trí bạn lắng nghe rồi quên đi. Khi tôi nói về 112 kỹ thuật, đương nhiên bạn
không có khả năng lặp lại tên gọi. Bạn hoàn toàn quên hay chỉ nhớ vài điều. Bạn
bị rối loạn và không thể nhận biết bất cứ điều gì. Vị thầy chọn đúng ngay thời
điểm tâm thức tê liệt, ông cho bạn một kỹ thuật và nó đi vào vô thức.
Có rất nhiều
buổi điểm đạo trong trạng thái xuất thần sâu sắc. Khi tâm thức bạn hoàn toàn dừng
lại, cánh cửa vô thức được mở ra. Tinh thần quy phục rất cần trong buổi điểm đạo;
vì khi thức phô diễn không còn hoạt động mới có thể tiếp thu được những gì vị
thầy bí mật trao truyền.
Khi đúng thời
điểm, bạn được chuẩn bị cho buổi lễ. Có thể vị thầy sắp xếp rất nhiểu tháng để
chuẩn bị. Cần dùng đúng thực phẩm, ngủ đúng phương pháp và hoàn toàn trong sự tỉnh
lặng. Khi đó bạn mới có thể được điểm đạo. Vì thế buổi lễ là một quá trình lâu
dài mang tính cách cá nhân và riêng biệt.
Ngoại trừ, một
số người đã hoàn toàn quy phục, còn không buổi lễ điểm đạo không thể xảy ra. Vì
vậy, tôi không làm lễ điểm đạo cho các bạn với 112 kỹ thuật. Tôi chỉ có thể giới
thiệu cho các bạn làm quen với Mật điển. Và nếu ai yêu thích, cảm nhận mình phù
hợp với pháp sâu sắc. Có nghĩa người ấy cần điểm đạo, tôi có thể làm lễ cho đi
vào dòng Pháp.
Nhưng đó là một
tiến trình lâu dài, bạn hoàn toàn độc lập và nhận biết hoàn toàn. Bạn trở nên
trần trụi và không để lại một chút dấu vết. Thế rồi tất cả mọi việc trở nên dễ
dàng và tốt đẹp.
Khi Pháp được
trao đúng người và vào đúng thời điểm; ngay thời khắc đó; nó lập tức vận hành. Thỉnh
thoảng trong điểm đạo, người học trò tỉnh thức tức thời, và pháp đầy linh
thiêng, tuyệt vời và sinh động. Như thế bất cứ những gì tôi đang làm bây giờ là
không phải là lễ điểm đạo. Nên nhớ, đó chỉ là sự tiếp cận gần khoa học để nhận
biết về 112 kỹ thuật.
Nếu ai thích
thú và xác tín, người ấy có thể được điểm đạo, nhận pháp và vận hành độc lập.
Tuy đơn độc nhưng thời gian chuẩn bị rất lâu dài, có thể chiếm nhiều năm hay cả
cuộc đời, và có thể bạn không có khả năng chờ đợi.
Thông qua
Pháp, vị thầy bắt đầu vận hành trong bạn. Ðiểm đạo là cầu nối lâu dài giữa thầy
và trò. Tuy nhiên, khi đã sâu lắng vào Pháp. Pháp sẽ vận hành thay đổi và chuyển
hoá bạn.
Câu hỏi tiếp:
Theo George Gurdjieff, "Ðồng
hoá là sự thống khổ" nhưng nhiều kỹ thuật thường áp dụng, như: Hãy cùng
tình thương trở thành một. Bạn nên đồng nhất với hoa hồng. Bạn cần đồng nhất với
vị thầy và nhiều hơn nữa... Empathy được đề nghị thiền định và đạt đến phẩm
tính linh thiêng. Vậy những điều Gurdjieff nói dường như chỉ là mảnh vụn nhỏ của
chân lý. Nhưng điều này chỉ hữu ích cho những kỹ thuật cố định.
Không. Không
phải là mảnh nhỏ của chân lý, nó hoàn toàn chân thực. Nhưng bạn phải hiểu đồng
hoá là vô minh, là không biết gì. Nhưng áp dụng vào thiền định lại là sự trong
sáng.
Ví như bạn là
"Ram", có ai nhục mạ "Ram" lập tức bạn cảm thấy bị sỉ nhục
vì bạn đồng hoá với định danh "Ram". Sự đồng hóa nầy không trong sáng
vì bạn hoàn toàn không rõ biết và cho rằng "Ram" chính là bạn.
Tâm trí không
bao giờ sáng tỏ: Tuy được gọi là"Ram", tuy nhiên tôi không phải là "Ram".
Đó chỉ là danh tính, mọi người sinh ra đã không có danh. Tên là được đặt để có
sự phân biệt. Người khác chỉ nhục mạ danh tính "Ram".
Vậy tôi có
nên giận hay không? Bạn chưa bao giờ đưa ra vấn đề như vậy. Và nếu trong tư tưởng
nghĩ thế, bạn sẽ không thể giận một chút nào. Vì vậy có thể cho rằng: Đồng hóa
với định danh là không trong sáng.
Nhưng đồng
hóa với đoá hoa, đó là hành động nỗ lực trong sáng. Bạn không ngộ nhận mình là
hoa, mà bạn đang đồng hóa tự ngã với hoa. Bạn trở nên đồng nhất với hoa với ý
thức sâu sắc rõ biết toàn thể quá trình vận hành.
Bạn đang làm
sự đồng nhất và đồng hóa là tính chất trong sáng của thiền định đồng nhất. Đó
là kỹ thuật tốt. Và nếu không trong sáng, chắc chắn không phải là kỹ thuật đồng
hoá của thiền định. Nên ghi nhớ!
Bạn tiếp tục
cầu nguyện mỗi buổi sáng hay ban đêm trong không ý thức. Đó là thói quen. Trong
khi cầu nguyện không rõ biết bạn đang làm gì. Không rõ biết bạn đang nói gì.
Như thế, cầu nguyện chỉ là sự lặp lại của thức như một con vẹt.
Ðó không phải
là thiền định. Nhưng nếu đi tắm trong rõ biết đó chính là thiền định. Hãy ghi
nhớ. Bất cứ bạn đang làm điều gì trong rõ biết, trong sự nhận thức hoàn toàn
trong sáng. Đó chính là thiền định. Ngay cả khi bạn giết người trong rõ biết
hoàn toàn. Đó chính là thiền định.
Ðó là những
gì Krishna nói với Arjuna trong Áo nghĩa thư: "Ðừng sợ hãi. Hãy giết kẻ
thù, hởi kẻ sát nhân hoàn toàn rõ biết. Hãy nhận thức trọn vẹn: Không ai bị tàn
sát, không một ai bị giết chết." Arjuna có thể dễ dàng đâm chết kẻ thù
mình trong sự không rõ biết. Ông có thể hăng say và điên loạn trong giận dữ và
tàn sát. Thật dễ dàng.
Nhưng Krisna
nói:
"Hãy tỉnh
thức trong hoàn toàn rõ biết và là dụng cụ của đôi bàn tay hoàn thiện, nhận biết
toàn diện và sáng tỏ không một ai bị giết, không một ai có thể chết. Nội tại là
sức sống vĩnh hằng, là bất diệt. Vậy hãy hủy diệt những hình tướng, dạng thức.
Hãy tiêu hủy những hiện tượng. Nếu Arjuna ý thức trong thiền định thì không gì
được gọi là bạo động, dã man hay tàn sát. Không có sự chết, không có đau khổ tham
dự vào nơi này."
Tôi xin kể
câu chuyện: Nagarjuna (Long Thọ) là một trong những vị thầy lỗi lạc và vĩ đại
nhất Ấn độ; đã thừa kế di sản của đức Phật, Mahariva và Krisna. Ngài là một
thiên tài hiếm có. Trí năng ngài không ai có thể sánh.
Đi ngang qua
thành phố, thủ đô của các vua chúa và thân thể ngài gần như trần truồng. Hoàng
hậu cũng là học trò ngài là những người hoàn toàn tín tâm trong sự dâng hiến.
Nagarjuna ngang qua với chiếc bát gổ khất thực. Hoàng hậu nói: "Cho tôi
bát khất thực của ngài. Tôi rất vui sướng trân trọng, và tôi tặng cho ngài một
bình bát khác." Nagarjuna bằng lòng.
Ðó là chiếc
bình bát bằng vàng chạm trổ tinh vi, và đính bằng những viên đá tuyệt vời, quý
giá. Nagarjuna không nói một lời. Theo thông lệ, không một khất sĩ nào nhận những
vật như thế. Họ sẽ nói: "Không, tôi không thể chạm vào vàng."
Nhưng
Nagarjuna lại nhận. Ngay lúc đó, hoàng hậu bị chựng lại và cảm nhận có điều gì
đó không hợp lý. Tại sao? Ngài phải từ chối vì là một vị thánh vĩ đại như thế. Tại
sao lại nhận vật vô cùng quý giá trong khi ngài là người vô sản, ngay cả mảnh
áo che thân cũng không có.
Không tư hữu
tài sản nhưng ngài lại không từ chối. Nếu Nagarjuna từ chối, hoàng hậu sẽ nài nỉ
và yêu cầu. Như thế nàng cảm thấy thoải mái hơn. Nhưng Nagarjuna đơn giản nhận
lấy và ra đi.
Tên trộm thấy
ngài đi ngang thành phố và nghĩ rằng: "Người đàn ông nầy không thể giữ bát
khất thực quý giá này. Ông có thể giữ nó được hay sao. Mình phải đánh cắp nó."
Tên trộm đi theo Nagarjuna. Ngài quyết định tạm nghỉ trong một tu viện cũ kỹ và
mục nát. Lúc đi vào trong, ngài nghe tiếng chân tên trộm, nhưng không quay lại
nhìn, vì ngài nghĩ: "Người ấy đến đây chỉ vì bình bát, không phải đến tìm
ta."
Tên trộm đứng
sau bức tường chờ đợi. Nagarjuna thấy hắn chờ đợi ở ngoài, nên liệng bình bát
ra khỏi cửa. Tên trộm sửng sốt: Người đàn ông nầy trần truồng, vô sản và món đồ
quý giá như thế lại vứt đi. Tên trộm hỏi Nagarjuna: "Thưa ngài. Con có thể
bước vào trong vì con có một thắc mắc."
Nagarjuna nói:
"Tôi vất cái bát để giúp ông có thể đến gần. Tôi ngủ trưa ở đây. Và ông đến
đây mục đích là bình bát, vậy thì không có trở ngại nào giữa hai chúng ta. Vậy
thì cứ tự nhiên."
Tên trộm bước
vào và nói: "Vật quý giá như thế và sao ngài vứt đi. Ngài như vị thánh và
tôi không thể dối gạt ngài. Tôi là một tên trộm." Nagarjuna: "Ðừng
quá lo lắng, tất cả đều là ăn trộm. Con cứ tiếp tục nghề của con, đừng lãng phí
thời gian về những điều không cần thiết."
Tên trộm nói:
"Thỉnh thoảng ngắm nhìn những người như ngài, tâm trí con nhận biết; con
cũng có thể đạt trạng thái tâm thức như các ngài; nhưng con là một tên trộm nên
điều nầy không thể. Nhưng con hy vọng và cầu nguyện một ngày nào đó, con cũng
có khả năng vứt bỏ đi những vật vô giá như ngài. Hãy dạy cho con. Con đã đến
nhiều vị thầy. Vì con là tên trộm nổi tiếng, tất cả mọi ngươì đều biết. Và họ
nói 'Ðầu tiên, hãy từ bỏ nghề nghiệp đang làm; mới có thể học về thiền định'.
Ðó là điều không thể xảy ra, con không thể từ bỏ. Và con không thể học thiền định."
Nagarjuna nói:
"Nếu ai nói con từ bỏ nghề ăn trộm rồi mới thiền định, người ấy không biết
gì về thiền định. Thiền định liên hệ với tên trộm như thế nào? Không có mối
liên hệ nào cả. Vậy tiếp tục làm những gì con làm. Ta sẽ cho con một phương
pháp tu tập và thực hành về những điều này."
Tên trộm:
"Bây giờ, dường như chúng ta có thể đi chung đường, con vẫn giữ được nghề
của con. Và giờ con sẽ thực hành pháp gì. Xin ngài hãy cho con." Nagarjuna:
"Chỉ cần giữ một điều, là ý thức. Khi đi ăn trộm, cần hoàn toàn rõ biết
mình đang ăn trộm. Khi đột nhập vào bảo tàng, phải hoàn toàn rõ biết mình đột
nhập. Và ra khỏi bảo tàng cũng hoàn toàn rõ biết. Như thế có nghĩa là rõ biết
trong từng hành động. Bất cứ điều gì con làm, không liên quan gì tới ta, và đến
đây sau 15 ngày thực hành. Ðừng đến nếu không thực hành. Trong 15 ngày, con vẫn
làm những gì cần làm, nhưng phải hoàn toàn làm trong sự trọn vẹn và rõ biết."
Ngày thứ 3
tên trộm quay lại: "15 ngày là quá lâu. Ngài lừa con bằng cách cho con một
kỹ thuật thực hành. Nhưng nếu hoàn toàn rõ biết và trong sáng, con không thể
nào ăn trộm. Liên tục trong 3 đêm, con tìm thấy một kho tàng qúy giá. Tất cả những
vật vô cùng quý giá phô bày trước mặt. Nhưng trong sự rõ biết và ý thức trọn vẹn,
con thấy mình như trạng thái đức Phật. Con không thể tiếp tục hành nghề. Đôi
bàn tay không còn linh động, và châu báu trở nên không còn có giá trị. Con đã
trở lại lần nữa và thêm lần nữa. Cũng vậy. Như thế phải làm gì bây giờ. Và ngài
nói không cần từ bỏ nghề nghiệp. Nhưng phương pháp của ngài là cách thức để tự
hoàn thiện."
Nagarjuna nói:
"Ðừng trở lại đây gặp tôi nếu chưa quyết định. Hãy tự chọn lựa và quyết định:
Nếu vẫn tiếp tục ăn trộm thì hãy quên thiền định. Nếu muốn thiền định hãy từ bỏ
ăn trộm."
Tên trộm nói:
"Ngài đã đưa con vào trạng thái bất động như pho tượng. Ba ngày con đã nhận
biết, và con trở lại với đôi bàn tay trắng. Ðây là lần đầu tiên con có cảm giác
con là sự tối thượng, không phải là tên trộm. Chỉ trong ba ngày phúc lạc, bây
giờ con không thể nào rời bỏ sự thiền định. Ngài đã lừa con. Bây giờ xin ngài
điểm đạo và nhận con là học trò. Không cần thiết thực tập nữa. Với con, ba ngày
là quá đủ."
Bất cứ vật thể
hay đối tượng nào, nếu trong sáng và rõ biết, đó là thiền định. Hãy thực tập và
đồng hoá trong sự sáng tỏ, rõ biết, sẽ là thiền định. Không thể tỏ sáng là sự
đau khổ to lớn nhất của con người.
Nếu bạn luôn
luôn đồng hoá với những sự việc: "Ðây là của tôi. Ðó là của tôi." Bạn
đồng hoá: "Ðây là đất nước tôi, là tổ quốc tôi, là lá cờ đại diện cho dân
tộc tôi." Và nếu ai đó quăng lá cờ đất nước bạn xuống đất, bạn sẽ nổi nóng.
Họ đang làm gì thế?
Sự thực bạn
không có xứ sở. Tất cả những lá cờ là chủ nghĩa gán ghép và mệnh danh. Rất tốt,
hãy vứt bỏ như những đứa trẻ thường làm. Đối với nó chỉ là món đồ chơi. Vậy mà
bạn có thể giết người vì lá cờ trong khi nó chỉ là miếng vải ghép.
Sự việc gì xảy
ra? Bạn ngộ nhận và đồng hóa mình với lá cờ. Sự đồng hóa nầy là không trong
sáng và rõ biết. Khi tâm không sáng tỏ chính là nguồn gốc của đau khổ (Vô minh).
Thôi thế cũng
đủ cho ngày hôm nay.