Osho - Kinh nghiệm
Mật Tông
Chương 5: Con người
là huyền thoại
Với ruồi thích mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm của gỗ đàn hương là hôi hám.
Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi giới của luân hồi thô thiển.
Dấu chân bò ngập nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm chất, không hoàn hảo,
Thì những bất toàn này sẽ khô đi theo thời
gian
Giống như nước biển mặn biến thành ngọt khi được
mây hút lên,
Cũng vậy một tâm trí vững chắc, làm việc vì
người khác,
Sẽ biến chất độc của đối tượng giác quan
Thành nước cam lồ.
Nếu không thể nói ra được,
Đừng bao giờ là người không được thoả mãn,
Nếu không thể tưởng tượng được,
Điều đó phải là bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn chín rộ
Khi từ đó mưa rơi xuống.
Con người là điều
huyền thoại, và là điều huyền thoại nguy hiểm nhất, bởi vì nếu bạn tin rằng con
người tồn tại thế thì bạn không cố gắng để làm tiến hoá con người chút nào,
không có nhu cầu. Nếu bạn tin rằng mình đã là người rồi, thế thì tất cả mọi trưởng
thành đều chấm dứt.
Bạn vẫn chưa là
con người, bạn mới chỉ có tiềm năng cho điều đó thôi. Bạn có thể là con người,
bạn có thể không, bạn có thể bỏ lỡ. Nhớ lấy, điều đó có thể bị bỏ lỡ.
Con người còn
chưa được sinh ra; là con người không phải là sự kiện được cho sẵn, bạn không
thể có được điều đó bằng việc cho không. Đấy chỉ là một khả năng. Con người tồn
tại như hạt mầm, không như cây - còn chưa thành cây. Con người còn chưa là thực
tại, và khác biệt giữa tiềm năng và thực tại là lớn lao.
Con người như
người đó đang tồn tại chỉ là cái máy, vậy mà con người vẫn làm việc, vậy mà con
người vẫn thành công trong thế giới này, vậy mà con người vẫn sống cái gọi là
cuộc sống và chết. Nhưng nhớ lấy, con người không tồn tại. Chức năng của người
đó là ở chức năng của cái máy, người đó là người máy.
Con người là
cái máy. Vâng, cái máy này có thể trưởng thành trong nó mà nó có thể vượt ra
ngoài cái máy. Cái máy này không phải là cái máy thường; nó có tiềm năng vô
cùng để vượt ra ngoài bản thân nó. Nó có thể tạo ra cái gì đó siêu việt lên
trên cấu trúc riêng của nó. Đôi khi nó đã tạo ra... một Phật, một Christ, một
Gurdjieff - đôi khi nó đã tạo ra con người. Nhưng bạn đừng tin rằng mình đã là
con người. Nếu bạn tin, niềm tin của bạn sẽ mang tính tự sát - bởi vì một khi
chúng ta tin rằng điều gì đó đã có đó thế thì chúng ta chấm dứt tìm kiếm nó, thế
thì chúng ta chấm dứt tạo ra nó, thế thì chúng ta chấm dứt phát hiện nó, thế
thì chúng ta chấm dứt tiến hoá nó.
Nghĩ xem: một
người ốm, một người ốm nặng, nghĩ mình mạnh khoẻ. Sao người đó phải tới bác sĩ?
Sao người đó phải uống thuốc? Sao người đó phải đi trị liệu? Sao người đó sẵn
lòng đi bệnh viện? Người đó tin mình mạnh khoẻ, người đó có sức khoẻ hoàn hảo...
và người đó đang chết! Niềm tin của người đó sẽ giết chết người đó.
Đó là lí do tại
sao tôi nói huyền thoại này là nguy hiểm, huyền thoại nguy hiểm nhất mà các tu
sĩ và chính khách đã hư cấu ra: rằng con người đã có trên trái đất. Hàng triệu
người này trên trái đất chỉ là những khả năng, và không may là đại đa số họ lại
chưa bao giờ sẽ trở thành thực tại; không may, nhiều người trong số họ sẽ chết
như cái máy.
Tôi ngụ ý gì
khi tôi nói con người là cái máy? Tôi ngụ ý rằng con người sống từ quá khứ. Con
người sống từ một cấu trúc chết, con người sống từ thói quen, con người sống cuộc
sống thường lệ. Con người cứ đi cùng vòng tròn ấy, theo cùng con đường mòn ấy,
đi đi, đi lại. Bạn không thể thấy được cái vòng luẩn quẩn trong cuộc sống của
mình sao? Cùng những điều ấy bạn đã làm mọi ngày: hi vọng, giận dữ, ham muốn,
tham vọng, nhục dục, tình dục, thất vọng, lại hi vọng... cứ cái vòng tròn ấy
chuyển động... Mỗi hi vọng lại dẫn tới thất vọng, chưa bao giờ nó khác đi; và
sau mỗi thất vọng, một hi vọng mới, và cái vòng ấy lại bắt đầu chuyển động.
Tại phương Đông
chúng ta gọi nó là cái bánh xe của luân hồi samsara. Nó là cái bánh xe, các nan
hoa là như nhau. Và bạn bị nó lừa đi lừa lại, bạn lại cứ hi vọng. Và bạn biết
mình đã hi vọng trước đây, bạn đã hi vọng cả triệu lần rồi, mà chẳng cái gì xảy
ra từ hi vọng đó. Chỉ bánh xe là cứ chuyển, và cứ giết chết bạn, cứ phá huỷ cuộc
sống của bạn. Thời gian chạy khỏi tay bạn. Mỗi khoảnh khắc mất đi là mất đi mãi
mãi, và bạn cứ lặp lại cái cũ.
Đây là điều tôi
muốn nói khi tôi nói con người là cái máy. Tôi đồng ý với George Gurdjieff tuyệt
đối; ông ấy hay nói rằng bạn còn chưa có linh hồn. Ông ấy là người đầu tiên nói
điều đó một cách quyết liệt thế, rằng bạn còn chưa có linh hồn. Vâng, linh hồn
có thể được sinh ra trong bạn, nhưng bạn sẽ phải trao việc sinh thành cho nó; bạn
sẽ phải trở nên có khả năng trao việc sinh cho nó.
Suốt hàng thế kỉ
các tu sĩ đã bảo bạn rằng bạn đã có linh hồn rồi, rằng bạn đã có con người đó.
Điều đó không phải như vậy; bạn chỉ mới có tiềm năng như vậy thôi. Thực tế bạn
có thể trở thành, nhưng huyền thoại này phải bị phá bỏ. Thấy sự kiện của nó: bạn
còn chưa là sinh linh có ý thức; và nếu bạn không là sinh linh có ý thức, làm
sao bạn có thể là con người được?
Đâu là khác biệt
giữa tảng đá và bạn? Đâu là khác biệt giữa con vật và bạn? Đâu là khác biệt giữa
cây và bạn? Khác biệt là khác về ý thức. Nhưng bạn có bao nhiêu ý thức?... chỉ
mong manh đây đó. Chỉ đôi khi, trong những khoảnh khắc hiếm hoi, bạn mới trở
nên có ý thức; và điều đó chỉ trong vài giây rồi bạn lại rơi trở lại vào trong
vô ý thức. Vâng, đôi khi điều đó xảy ra, bởi vì nó là tiềm năng của bạn.
Đôi khi điều đó
xảy ra mặc bạn... một hôm mặt trời lên và bạn rơi vào hài hoà với sự tồn tại -
rồi bỗng nhiên nó có đó: cái đẹp của nó, phúc lành của nó, hương thơm của nó,
ánh sáng của nó. Bỗng nhiên nó có đó và bạn có hương vị của cái đang có đó, cái
có thể hiện hữu, cái hiện hữu. Nhưng khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo rằng nó
có đó, nó đã trôi qua rồi. Chỉ kí ức là còn lại. Chỉ hiếm khoảnh khắc: đôi khi
trong tình yêu, đôi khi ngắm trăng tròn, đôi khi mặt trời lên, đôi khi ngồi
trong hang núi im lặng, đôi khi nhìn vào đứa trẻ đang chơi đùa, khúc khích;
vâng, đôi khi trong âm nhạc... Nhưng những khoảnh khắc này là hiếm hoi.
Nếu một người
bình thường, cái gọi là con người, mà đạt tới bẩy khoảnh khắc nhận biết trong
toàn bộ cuộc sống của mình, điều đó sẽ là quá nhiều. Hiếm lắm, rất hiếm hoi, chỉ
một tia sáng đi vào, và thế rồi nó lại đi mất. Còn bạn quay lại với cuộc sống tầm
thường của mình, đờ đẫn và chết. Và điều này không chỉ vậy với người bình thường,
nó là vậy với những người được gọi là phi thường của bạn.
Mới hôm nọ tôi
đã đọc về Carl Jung, một trong những nhà tâm lí vĩ đại nhất của thời đại này...
nhưng đôi khi người ta tự hỏi liệu có nên gọi những người này là các nhà tâm lí
hay không. Ông ấy là con người rất bất an, hoàn toàn bất an. Ông ấy không thể
nào ngồi im lặng một khoảnh khắc; ông ấy sẽ quay người, trở mình, ông ấy sẽ làm
điều này điều khác. Nếu không có gì để làm, ông ấy sẽ hút tẩu thuốc, và ông ấy
là người hút hết điếu nọ tới điếu kia. Thế rồi ông ấy bị đau tim và các bác sĩ
nói phải dừng việc hút thuốc, dừng hoàn toàn. Bây giờ điều đó là rất khó. Ông ấy
bắt đầu cảm thấy sự bất an của mình quá nhiều, ông ấy bắt đầu cảm thấy phát điên.
Ông ấy sẽ đi lại trong trong phòng, ông ấy sẽ đi ra ngoài, chẳng có lí do gì;
ông ấy sẽ ngồi trong chiếc ghế này ghế nọ. Và thế rồi ông ấy nhận ra sự kiện rằng
cái tẩu đã rất, rất có ích. Đấy là giải thoát, một loại giải thoát khỏi cái bất
an của mình. Cho nên ông ấy hỏi bác sĩ, "Tôi có thể ngậm chiếc tẩu rỗng
trong mồm được không? Điều đó có được phép không?" - chiếc tẩu rỗng!
"Điều đó sẽ có ích cho tôi."
Ông ấy được
phép, và thế rồi trong hàng năm ông ấy quen ngậm chiếc tẩu rỗng trong mồm, chỉ
giả vờ rằng ông ấy hút thuốc. Và thế rồi ông ấy nhìn vào cái tẩu, cầm cái tẩu
trong tay, chơi với cái tẩu. Và đây là về một nhà tâm lí vĩ đại của thời đại
này! Vô ý thức làm sao! Quá nhiều trong việc ôm giữ thói quen đó, quá nhiều
trong việc ôm giữ điều vô ý thức! - điều đó có vẻ trẻ con. Và thế rồi chúng ta
cứ tìm cách hợp lí hoá; thế rồi chúng ta cứ giả vờ với chính mình, thế rồi
chúng ta cứ bảo vệ và phòng thủ cho mình nhưng tại sao chúng ta làm điều này.
Vào độ tuổi bốn
mươi lăm Carl Jung yêu một phụ nữ. Ông ấy là một đàn ông đã có gia đình với bà
vợ rất đáng yêu. Chẳng có gì sai cả, nhưng điều đó phải đã là bất an. Chuyện gần
như bao giờ cũng xảy ra là gần độ tuổi bốn mươi lăm, người ta bắt đầu cảm thấy
rằng cả cuộc sống đã trôi qua. Cái chết đang tới gần hơn, và bởi vì cái chết
đang tới gần hơn, nên hoặc bạn trở thành mang tính tâm linh hoặc bạn trở thành
mang tính dục nhiều hơn.
Đây là hai cách
phòng thủ duy nhất: hoặc bạn quay sang tìm kiếm chân lí, tìm kiếm cái vĩnh hằng
không có cái chết, hoặc bạn bắt đầu nhấn chìm mình vào trong những chuyện tình
ái tưởng tượng. Và đặc biệt là những người trí thức - những người đã sống cả đời
qua cái đầu - là nạn nhân nhiều hơn vào độ tuổi bốn mươi lăm. Thế thì bản năng
dục báo thù.
Nó đã bị chối bỏ;
bây giờ cái chết đang tới gần hơn và thế rồi người ta chẳng bao giờ biết được
liệu mình sẽ có lại ở đây nữa hay không, liệu cuộc sống sẽ có đó hay không. Cái
chết đang tới đây còn bạn đã sống cuộc sống của cái đầu. Bản năng dục bùng phát
với sự báo thù.
Carl Gustav
Jung yêu một phụ nữ trẻ. Bây giờ điều đó rất phản lại danh tiếng của ông ấy. Bà
vợ bị khuấy động, và bà vợ đã yêu ông ấy cực kì và đã tin cậy vào ông ấy. Ông ấy
hợp lí hoá điều đó thật hay. Nhìn vào việc hợp lí hoá của ông ấy - đó là cách
con người vô ý thức cứ sống. Ông ấy sẽ làm điều gì đó vô ý thức, thế rồi sẽ cố
gắng hợp lí hoá nó và sẽ cố gắng chứng minh rằng điều đó là không vô ý thức:
"Tôi đang làm điều đó rất có ý thức - trong thực tế, điều đó phải được
làm."
Ông ấy đã làm
gì? Ông ấy bỗng nhiên phát triển một lí thuyết rằng có hai kiểu phụ nữ trên thế
giới: một là kiểu người mẹ, kiểu chăm sóc, kiểu vợ; và kiểu kia, kiểu tình
nhân, người yêu, người trở thành nguồn hứng khởi. Và đàn ông cần cả hai - và
đàn ông kiểu như Carl Gustav Jung chắc chắn cần cả hai. Ông ấy cần hứng khởi nữa.
Ông ấy cần một phụ nữ chăm sóc; điều đó vợ ông ấy đang thực hiện - bà ấy đáng
yêu, thuộc kiểu người mẹ. Nhưng điều đó không đáp ứng cho nhu cầu của ông ấy -
ông ấy cần hứng khởi nữa, ông ấy cần một phụ nữ lãng mạn nữa, một tình nhân người
có thể đưa ông ấy vào những giấc mơ sâu; đó là điều phải có với ông ấy. Jung đã
phát triển lí thuyết này... đây là hợp lí hoá.
Bây giờ ông ấy
chẳng bao giờ phát triển phần kia của nó, rằng đàn ông có hai kiểu. Đó là nơi bạn
có thể tìm thấy rằng đó là hợp lí hoá. Nếu đó là sáng suốt thực sự thế thì phần
kia, rằng đàn ông có hai kiểu, kiểu người bố và kiểu người yêu... thế thì vợ của
Jung cũng cần đến hai kiểu! Nếu Jung nghĩ rằng ông ấy là kiểu người yêu, thế
thì bà ấy cần kiểu người bố; nếu Jung nghĩ ông ấy là kiểu người bố, thế thì bà ấy
cần kiểu người yêu. Nhưng điều đó ông ấy chưa bao giờ phát triển cả. Đấy là
cách bạn có thể thấy nó không phải là sáng suốt; nó chỉ là một tâm trí thủ đoạn,
hợp lí hoá.
Chúng ta cứ hợp
lí hoá. Chúng là mọi việc một cách vô ý thức, chúng ta làm chúng mà không biết
tại sao chúng ta đang làm chúng. Nhưng chúng ta không thể nào chấp nhận sự kiện
này: rất xấu hổ để chấp nhận rằng, "Tôi đã làm điều gì đó mà tôi lại không
nhận biết về điều đó và tôi không biết tại sao." Nhận biết về việc hợp lí
hoá này.
Và làm sao những
người như vậy có thể làm lợi được cho người khác? Chính sự kiện rất nổi tiếng
là nhiều bệnh nhân của Carl Jung đã tự tử. Tại sao? Họ đã tới để được giúp đỡ,
tại sao họ tự tử? Cái gì đó về cơ bản đã phải sai rồi. Việc phân tích của ông ấy
chỉ là điều tệ hại. Ông ấy là con người rất kiêu ngạo, rất bản ngã, liên tục chỉ
chực đánh nhau. Có thể toàn bộ việc phân tâm của ông ấy đã được phát triển chỉ
vì kiêu ngạo của ông ấy chống lại Sigmund Freud. Có thể đấy lại chỉ là hợp lí
hoá, bởi vì bản thân ông ấy dường như đang chịu cùng những vấn đề mà ông ấy
nghĩ để giúp cho người khác.
Jung bao giờ
cũng rất sợ ma; ngay cả trong tuổi già của mình ông ấy cũng sợ ma. Ông ấy đã
không xuất bản cuốn sách quan trọng nhất của mình trong khi còn sống bởi vì ông
ấy sợ rằng mọi người sẽ đi tới biết các sự kiện. Cho nên các truyện kí của ông ấy
được xuất bản, nhưng ông ấy đã phải chắc chắn rằng chúng được xuất bản chỉ khi
ông ấy chết. Bây giờ đây là cái kiểu chân lí và đích thực gì? Ông ấy sợ bị phát
hiện ra là sai, hay trong cái sai, đến mức ông ấy chưa bao giờ cho phép bất kì
sự kiện nào được tiết lộ về cuộc sống của mình trong khi ông ấy còn sống.
Tôi đã đọc một
giai thoại...
Một người tới một
nhà tâm thần và bắt đầu bộc bạch trước bác sĩ về lịch sử cuộc sống mình, bao
quát các kinh nghiệm thời niên thiếu của mình, cuộc sống tình cảm, thói quen ăn
uống, vấn đề nghề nghiệp, và đủ mọi thứ người đó có thể nghĩ tới. "Được,"
bác sĩ nói, "với tôi dường như chẳng có gì sai với ông cả. Ông dường như
cũng lành mạnh như tôi vậy."
"Nhưng bác
sĩ này," bệnh nhân phản đối, một dấu hiệu khiếp hãi len vào giọng người
đó, "đấy là những con bướm này. Tôi không thể nào chống lại được chúng.
Chúng ở khắp trên tôi."
"Lạy
chúa," bác sĩ kêu lên, nhảy lùi lại, "Chớ có phẩy chúng lên tôi đấy!"
Bệnh nhân và
bác sĩ, tất cả đều trên cùng một thuyền. Nhà phân tâm và người được phân tích
không phải xa xôi gì. Đấy là trò chơi. Có thể nhà phân tâm còn láu cá hơn,
nhưng không phải là ông ta biết thực tại, bởi vì để biết thực tại thì bạn sẽ phải
trở nên cực kì ý thức; không có cách khác. Vấn đề không phải là suy nghĩ trí tuệ,
điều đó chẳng liên can gì tới việc triết lí của bạn cả. Để biết thực tại thì
người ta phải trưởng thành trong nhận biết.
Gurdjieff hay
nói về tâm lí học tương lai. Ông ấy hay nói rằng tâm lí học vẫn không tồn tại,
bởi vì làm sao nó có thể tồn tại được? Ngay cả con người cũng không tồn tại!
Khi con người không có đó, làm sao khoa học về con người có thể tồn tại được?
Ngay bây giờ bất kì cái gì tồn tại thì cũng không phải là tâm lí học. Có thể nó
là cái gì đó về cái máy là con người.
Tâm lí học chỉ
có thể tồn tại quanh vị phật. Với tâm thức, Phật sống. Bạn có thể thấy tâm lí của
ông ấy là gì, linh hồn của ông ấy là gì. Người thường sống không có linh hồn.
Vâng, bạn có thể tìm thấy cái gì đó sai sót trong cái máy của người đó, và cái
sai đó có thể được chữa thành đúng. Điều chúng ta biết như tâm lí học ngày nay
chẳng là gì ngoài chủ nghĩa hành vi. Và theo nghĩa đó thì Pavlov và Skinner còn
đúng hơn Freud và Jung, bởi vì họ nghĩ con người là máy. Họ đúng về con người
đang tồn tại, mặc dầu họ hoàn toàn không đúng bởi vì họ nghĩ đây là mục đích,
con người không thể khác được. Đó là giới hạn của họ: họ nghĩ con người chỉ là
máy thôi. Họ là đúng khi có liên quan tới con người hiện tại ngày nay - con người
là máy - nhưng họ nghĩ rằng con người không thể khác được. Tại đó họ sai. Nhưng
Freud và Jung và Adler còn sai hơn bởi vì họ nghĩ con người đã có trên trái đất
này; tất cả mọi điều bạn cần là nghiên cứu con người và bạn sẽ biết. Nhưng con
người không có đó. Đấy là một hiện tượng rất vô ý thức.
Con người là
huyền thoại. Bạn để điều đó là một trong những sáng suốt cơ bản nhất. Nó sẽ
giúp bạn thoát ra khỏi dối trá, thoát ra khỏi lừa dối.
Mật tông là nỗ
lực để làm cho bạn ý thức hơn. Chính từ Mật tông (Tantra) có nghĩa là mở rộng của
nhận biết. Nó bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn tan: tan có nghĩa là mở rộng. Mật
tông có nghĩa là sự mở rộng của tâm thức - và sự kiện cơ sở và sự kiện nền tảng
nhất cần được hiểu là ở chỗ bạn đang ngủ say. Bạn phải được đánh thức dậy.
Mật tông tin
vào các phương pháp trường phái: điều đó cũng phải được hiểu. Theo nghĩa đó
Gurdjieff là một trong những người mật tông vĩ đại nhất của thời đại này. Chẳng
hạn, nếu một người đang ngủ, có rất ít khả năng người đó có thể trở nên thức tỉnh
một mình. Nhìn vào điều đó theo cách này: vào ngày đầu năm bạn nghĩ như bạn bao
giờ cũng nghĩ... và nhiều ngày đầu năm đã trôi qua, và bao giờ bạn cũng đưa ra
lời nguyện rằng bạn sẽ không bao giờ hút thuốc lại nữa; và lần nữa năm mới lại
tới và bạn bắt đầu nghĩ lần này điều đó sắp xảy ra. Bạn đưa ra lời nguyện rằng
bạn sẽ không bao giờ hút thuốc, nhưng bạn không đi nói điều đó cho người khác,
bạn sợ việc nói. Nói điều đó cho người khác là nguy hiểm bởi vì bạn biết mình,
nhiều lần bạn đã phá bỏ lời nguyện rồi; thế thì điều đó rất xấu hổ. Cho nên bạn
giữ điều đó cho mình. Bây giờ chỉ có một khả năng trong một trăm khả năng là lời
nguyện sẽ được giữ; chín mươi chín khả năng là nó sẽ bị phá bỏ chẳng chóng thì
chầy.
Bạn là người vô
ý thức; lời nguyện của bạn chẳng có nghĩa gì nhiều. Nhưng nếu bạn đi và bạn nói
cho mọi người trong thành phố - bạn bè, đồng nghiệp, con cái, vợ... bạn đi và bảo
với mọi người, "Tôi đã nguyện là tôi sẽ không hút thuốc nữa," có nhiều
khả năng, ít nhất là mười phần trăm, rằng bạn sẽ không hút thuốc. Lần đầu chỉ
có một phần trăm, bây giờ có mười khả năng. Chín mươi phần trăm khả năng là bạn
sẽ hút thuốc, nhưng việc không hút thuốc có nền tảng hơn, vững chắc hơn; từ một
phần trăm nó đã lên tới mười phần trăm. Nhưng nếu bạn tham gia vào một nhóm người
không hút thuốc, nếu bạn tham gia vào một đoàn thể những người không hút thuốc,
thế thì khả năng thậm chí còn nhiều hơn: chín mươi chín phần trăm là khả năng bạn
sẽ không hút thuốc. Điều gì xảy ra?
Khi bạn một
mình, bạn không có hỗ trợ nào từ bên ngoài - bạn một mình, bạn có thể rơi vào giấc
ngủ dễ dàng. Và chẳng ai biết cả, cho nên bạn cũng không lo nghĩ. Khi tất cả đều
biết, việc biết của họ sẽ vận hành để giữ cho bạn tỉnh táo hơn. Bây giờ bản ngã
của bạn đang lâm nguy, kính trọng và tôn trọng với bạn đang lâm nguy. Nhưng nếu
bạn gia nhập một đoàn thể những người không hút thuốc, thế thì khả năng còn nhiều
hơn, bởi vì bạn sống qua thói quen. Ai đó rút bao thuốc lá ra khỏi túi, và bỗng
nhiên bạn bắt đầu nhìn vào túi mình. Bạn chỉ như cái máy: ai đó hút thuốc và bạn
bắt đầu nghĩ hút thuốc cũng hay làm sao. Không ai hút thuốc, và bạn trong đoàn
thể những người không hút thuốc, thế thì không ai nhắc nhở bạn cả; và thói quen
này dần dần sẽ biến mất, vì không dùng tới. Nếu một thói quen không được dùng tới,
dần dần nó biến mất; nó có khuynh hướng trở nên chết, nó mất níu bám vào bạn.
Mật tông nói:
con người có thể trở nên thức tỉnh chỉ qua phương pháp nhóm, qua trường phái.
Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh nhiều vào tính chất sannyas. Một mình, bạn
không chống lại được cơ hội. Cùng nhau, có nhiều khả năng hơn. Cũng dường như
là có mười người bị lạc trong sa mạc và rất nguy hiểm trong đêm: kẻ thù có thể
giết họ, thú hoang có thể giết họ, cướp có thể tới, kẻ giết người có thể thấy -
rất khó khăn. Bây giờ họ quyết định theo phương pháp nhóm, họ nói: "Mỗi
người sẽ thức trong một tiếng." Cho rằng từng người sẽ vẫn còn thức tỉnh cả
tám tiếng trong đêm là đòi hỏi quá nhiều với người vô ý thức, nhưng từng người
sẽ vẫn còn thức tỉnh trong một tiếng. Và trước khi người đó bắt đầu rơi vào giấc
ngủ, người đó nên làm cho ai đó khác thức dậy, thế thì có nhiều khả năng là ít
nhất một người trong nhóm sẽ có khả năng thức cả đêm.
Hay như
Gurdjieff hay nói: Bạn đang trong tù và bạn muốn thoát ra khỏi nhà tù. Một mình
không mấy cơ may; nhưng nếu tất cả các tù nhân trở thành một nhóm, thế thì có
nhiều cơ may hơn - họ có thể ném vào lính gác, họ có thể giết lính gác, họ có
thể phá vỡ tường. Nếu tất cả các tù nhân đều cùng nhau, thế thì có nhiều cơ may
là họ có thể thoát tù, được tự do.
Nhưng cơ may sẽ
tăng lên thậm chí còn nhiều hơn nữa nếu họ có tiếp xúc với vài người ở ngoài
nhà tù, người đã tự do. Đó là toàn bộ ý nghĩa của việc tìm ra thầy: tìm ra một
ai đó đã ở ngoài nhà tù. Người đó có thể là sự giúp đỡ vô biên, bởi nhiều lí
do. Người đó có thể cung cấp những điều cần thiết, những điều sẽ cần cho bạn để
thoát ra khỏi nhà tù; người đó có thể gửi các dụng cụ, giũa, để cho bạn có thể
phá vỡ nhà tù. Người đó có thể quan sát từ bên ngoài và người đó có thể thông
báo cho bạn khi nào đổi gác; trong khoảng giữa đó có khả năng để thoát ra. Người
đó có thể thông báo cho bạn khi nào lính gác ngủ say trong đêm. Người đó có thể
thu xếp để cho lính gác uống rượu say vào một đêm đặc biệt, người đó có thể mời
cai tù tới nhà mình dự tiệc; người đó có thể làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn
không thể làm được từ bên trong. Người đó có thể tìm ra sự hỗ trợ cho bạn từ
bên ngoài. Người đó có thể tạo ra bầu không khí để cho khi bạn được thoát ra khỏi
tù thì bạn sẽ được mọi người chấp nhận, bạn sẽ có chỗ ở, được đón vào nhà. Nếu
xã hội không sẵn sàng chấp nhận bạn từ bên ngoài, có thể thoát khỏi giam cầm
nhưng xã hội sẽ tống bạn trở lại vào tay giới coi giữ nhà tù.
Tiếp xúc với ai
đó đã thức tỉnh là một điều cần thiết. Và ở cùng với những người mà tất cả họ đều
nghĩ tới việc trở nên thức tỉnh cũng là điều cần thiết. Đây là ý nghĩa của
phương pháp trường phái, phương pháp nhóm. Mật tông là phương pháp nhóm. Nó
nói: Ở cùng nhau, tìm ra tất cả các khả năng. Cho nên nhiều người có thể ở cùng
và họ có thể chung năng lượng. Ai đó rất thông minh và ai đó rất đáng yêu - cả
hai đều một nửa, nhưng ở cùng nhau thì họ trở nên thống nhất hơn, toàn thể hơn.
Đàn ông là một
nửa, đàn bà là một nửa. Ngoại trừ Mật tông, tất cả những người tìm kiếm đều cố
gắng tìm kiếm mà không có người khác. Đàn ông đã cố gắng một mình, đàn bà đã cố
gắng một mình. Mật tông nói: Sao không ở cùng nhau, tay nắm tay nhau? đàn bà là
một nửa, đàn ông là một nửa - cùng nhau họ là một năng lượng lớn hơn, một năng
lượng toàn thể hơn, năng lượng lành mạnh hơn. Gắn lại với nhau! Để âm và dương vận
hành cùng nhau. Sẽ có nhiều khả năng hơn để thoát ra khỏi nó.
Các phương pháp
khác dùng tranh đấu và xung đột. Đàn ông bắt đầu đánh nhau với đàn bà, bắt đầu
trốn thoát khỏi đàn bà; thay vì dùng khả năng của giúp đỡ thì người đó bắt đầu
nghĩ đàn bà như kẻ thù. Mật tông nói đây là điều cực kì ngu xuẩn, bạn đang phí
hoài năng lượng của mình một cách không cần thiết để đánh nhau với đàn bà, bởi
vì có những điều lớn lao hơn cần phải được tranh đấu với! Tốt hơn cả là cùng đi
với đàn bà; để cho cô ấy giúp bạn, và bạn giúp cô ấy. Đi cùng nhau như một đơn
vị và các bạn có nhiều cơ may hơn để chống lại bản tính vô ý thức.
Dùng mọi khả
năng; chỉ thế thì mới có cơ may nào đó là mà bạn có thể tiến hoá thành sinh
linh có ý thức, bạn có thể trở thành vị phật.
Bây giờ lời
kinh... đây là lời kinh rất có ý nghĩa. Lời kinh thứ nhất:
Với ruồi thích
mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm
của gỗ đàn hương là hôi hám. Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi
giới của luân hồi thô thiển.
Điều đầu tiên:
như tôi đã nói, con người là cái máy. Con người sống theo thói quen, theo quá
khứ, theo kí ức; con người sống từ tri thức mà mình đã biết, đã thu nhận từ trước.
Cho nên người đó cứ bỏ lỡ cái mới, còn chân lí thì bao giờ cũng là cái mới. Người
đó giống như ruồi thích mùi thịt ôi, mùi hôi hám và hôi thối; hương thơm của gỗ
đàn là hôi hám với con ruồi. Ruồi có sắc thái kí ức nào đó, quá khứ nào đó; nó
bao giờ cũng nghĩ rằng mùi thối rữa của thịt là mùi thơm. Đó là tri thức của
nó, đó là thói quen của nó, đó là lệ thường của nó - đó là quá khứ chết của nó.
Bây giờ bỗng nhiên nó bắt gặp gỗ đàn hương: hương thơm của gỗ đàn hương với con
ruồi cứ dường như là mùi rất hôi và thối.
Bạn đừng ngạc
nhiên... đó là điều xảy ra cho bạn. Nếu bạn đã sống quá nhiều trong thân thể,
thế thì thậm chí có tới gần hơn với người sống trong linh hồn, bạn vẫn cứ cảm
thấy cái gì đó sai. Tới với vị phật, bạn sẽ không cảm thấy hương thơm; bạn thậm
chí có thể bắt đầu cảm thấy mùi hôi. Cách diễn giải của bạn... bằng không thì tại
sao mọi người giết chết Jesus? Jesus là gỗ đàn hương! và mọi người đơn giản đã
giết chết ông ấy. Tại sao mọi người lại đầu độc Socrates? Socrates là gỗ đàn
hương! Nhưng ruồi - chúng hiểu quá khứ riêng của mình, chúng diễn giải theo quá
khứ của chúng.
Một hôm tôi đọc
thấy...
Một gái mãi
dâm, gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thành Athens, có lần tới gặp Socrates. Và
vài người đang ngồi đó, chỉ vài người, cũng như ở đây có vài người ngồi, còn
Socrates đang nói với họ. Gái mãi dâm này nhìn quanh và nói với Socrates,
"Sao vậy? - một người vĩ đại như ông, và lại chỉ ít người nghe ông thế?
Tôi cứ nghĩ cả thành Athens này phải ở đây cơ đấy! Mà tôi chẳng thấy người đáng
kính nhất, người đáng trọng nhất ở đây - các chính khách, các tu sĩ, các nhà
trí thức - tôi không thấy họ ở đây. Có vấn đề gì vậy? Một ngày nào đó,
Socrates, ông tới nhà tôi; ông sẽ thấy họ đứng xếp hàng ở đó!"
Socrates nói,
"Cô phải đấy - bởi vì cô có thể mua vui cho đòi hỏi đại chúng. Tôi thì
không. Tôi chỉ hấp dẫn có vài người, vài người được chọn lọc. Những người khác
không thể cảm thấy hương thơm của tôi được, họ lẩn tránh! Cho dù họ có tới với
tôi, họ cũng chuồn thôi, họ sợ. Nó là một hương thơm hoàn toàn khác,"
Socrates nói.
Gái mãi dâm này
phải cực kì thông minh. Cô ta nhìn vào trong mắt của Socrates, cúi mình xuống
và nói, "Socrates, xin hãy chấp nhận tôi làm một trong những người bạn của
ông," và chẳng bao giờ rời đi, trở thành một phần của nhóm nhỏ đó.
Phải là một phụ
nữ của nhận biết lớn lao... cho nên bỗng nhiên có sự thay đổi, cô ấy đã hiểu điều
đó ngay lập tức! Nhưng Athens đã giết chết Socrates, họ đã không thích con người
này. Con người này có vẻ rất nguy hiểm. Có nhiều lời buộc tội chống lại ông ấy.
Một lời buộc tội là ông ấy phá huỷ niềm tin của mọi người, ông ấy phá huỷ tâm
trí thanh niên, rằng ông ấy là vô chính phủ, rằng nếu ông ấy được phép sống lâu
thêm nữa thì xã hội sẽ bị mất gốc. Ông ấy là kẻ thù nguy hiểm.
Ông ấy đã làm
gì? Ông ấy đã làm điều gì đó hoàn toàn khác: ông ấy đã cố gắng tạo ra trạng
thái vô trí. Nhưng mọi người nghĩ, "Ông ta phá huỷ tâm trí mọi người."
Họ cũng phải, những con ruồi ấy. Vâng, thanh niên cực kì bị hấp dẫn tới
Socrates - bởi vì chỉ thanh niên mới có thể bị hấp dẫn tới những điều như vậy.
Chỉ thanh niên mới có dũng cảm đó. Ngay cả người già tới tôi hay tới Socrates,
họ cũng chỉ là thanh niên; đó là lí do tại sao họ lại tới, bằng không thì họ
không thể tới được. Tâm trí già cỗi, mục nát không thể tới tôi được. Có thể
thân thể là già, nhưng nếu một ông già tới tôi hay một bà già, bà ấy chỉ tới bởi
vì bà ấy vẫn có tính thanh niên của linh hồn mình, bà ấy vẫn còn trẻ ở đâu đó;
bà ấy vẫn có khả năng hiểu cái mới, học cái mới. Họ nói bạn không thể dạy một
con chó già những trò mới... điều đó rất khó; con chó già biết các trò cũ và nó
cứ lặp lại chúng. Rất khó dạy điều gì cho tâm trí cũ.
Và những điều
này mới khác biệt triệt để thế, đối lập qua đường kính với tất cả những điều mà
đã từng được dạy cho bạn, đến mức chừng nào một người còn chưa thực sự trẻ thì
người đó thậm chí không thể nào lắng nghe được. Cho nên người trẻ bị hấp dẫn.
Đó là dấu hiệu rằng cái gì đó của vĩnh hằng, cái gì đó của tính trẻ vĩnh hằng của
vũ trụ đang trào ra qua Socrates.
Khi Jesus còn sống
bạn sẽ thấy thanh niên theo ông ấy. Bạn sẽ không thấy thanh niên tới gặp giáo
hoàng; người già, người sắp chết, người chết từ rất lâu, lâu rồi... họ tới gặp
giáo hoàng. Khi Shankaracharya nguyên thuỷ còn sống bạn sẽ tìm thấy thanh niên
tất cả quanh ông ấy. Nhưng với shankaracharya của Puri thì chỉ các thân thể chết,
các xác chết lắng nghe. Những người sống đâu? - bạn không thể tìm thấy họ được.
Bạn có thể đi
và nhìn vào trong bất kì ngôi đền nào và bạn sẽ thấy những bà già và ông già;
thanh niên không có đó. Trong thực tế, bất kì khi nào tôn giáo thực sự có đó,
thanh niên bị hấp dẫn; khi chân lí có đó, thanh niên bị hấp dẫn. Khi chỉ có dối
trá còn lại - học thuyết, giáo điều, tín điều - thế thì người già tới. Khi
thanh niên bị hấp dẫn, điều đó có nghĩa là chân lí là trẻ và thanh niên bị hấp
dẫn. Khi chân lí già, gần chết, thế thì người gần chết bị hấp dẫn.
Người già bị hấp
dẫn chỉ bởi vì sợ chết. Trong tuổi già thậm chí kẻ vô thần cũng trở thành hữu
thần... sợ hãi. Khi thanh niên được hấp dẫn tới cái gì đó, đấy không phải bởi
vì sợ chết bởi vì người đó chưa biết gì về cái chết cả; đấy là vì tình yêu cực
kì với cuộc sống. Và đó là khác biệt giữa tôn giáo thật và tôn giáo không thật.
Tôn giáo không thật là hướng cái sợ. Tôn giáo thật là hướng tình yêu.
Bạn phải đã
nghe... trong mọi ngôn ngữ của thế giới cái từ xấu xí đó tồn tại: Sợ thượng đế.
Từ đó phải đã được đặt ra bởi những người chết, đờ đẫn, người già. Sợ Thượng đế
sao? Làm sao người ta có thể sợ Thượng đế được? Và nếu bạn sợ Thượng đế, làm
sao bạn có thể yêu ngài được? Từ sợ, bạn có thể chống lại Thượng đế, bởi vì
ngài sẽ là kẻ thù của bạn; làm sao bạn có thể yêu ngài được? Và nếu bạn yêu
ngài, làm sao bạn có thể sợ ngài được? Bạn có bao giờ sợ người bạn yêu không? Bạn
có bao giờ sợ mẹ mình nếu bạn yêu mẹ không? Bạn có bao giờ sợ người đàn bà nếu
bạn yêu người đó không? Nếu bạn yêu, không có sợ; tình yêu xoá đi mọi sợ. Yêu
Thượng đế... lãng mạn trong tình yêu với Thượng đế... cực lạc trong tình yêu với
Thượng đế...
Nhưng điều đó
là có thể chỉ cho tâm trí trẻ trung. Dù tâm trí trẻ là ở trong thân thể trẻ hay
trong thân thể già, điều đó không liên quan - nhưng điều đó là có thể chỉ cho
tâm trí trẻ trung. Bây giờ Socrates bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn
thanh niên. Phật bị trừng phạt bởi vì ông ấy đã hấp dẫn thanh niên. Nhưng bạn
bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào một tôn giáo được sinh ra, thanh niên cũng xô
tới từ mọi góc trên thế giới.
Họ phải là biểu
tượng cho cái gì đó đã xảy ra. Khi người già xô về cái gì đó, bạn có thể chắc
chắn chẳng cái gì xảy ra ở đấy cả, đấy không phải là nơi hành động diễn ra! Nơi
thanh niên đi tới, đó là nơi hành động diễn ra. Nhưng:
Với ruồi thích
mùi hôi của thịt ôi,
Thì hương thơm
của gỗ đàn hương là hôi hám. Những người vứt bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi
giới của luân hồi thô thiển.
Chân lí là điều
không biết, bí ẩn. Bạn không thể tiếp cận nó qua thói quen quá khứ của mình. Bạn
có thể tiếp cận nó chỉ khi bạn lột bỏ hết mọi thói quen.
Áo choàng của
các linh mục Ki tô giáo được gọi là habit - nó là việc dùng hay cho từ habit.
Vâng, tôi nói, khi bạn trần trụi với mọi thói quen (habit), trần trụi với mọi
loại áo, mọi trang phục đều bị vứt bỏ, bạn hành động không qua kí ức mà qua nhận
biết... Đây là hai chức năng khác nhau. Bạn hành động qua kí ức, thế thì bạn
không thấy cái đang đó; bạn cứ thấy cái bạn đã thấy trước đây. Bạn cứ diễn giải
hiện tại dưới dạng của quá khứ, bạn cứ áp đặt điều gì đó không có đó; bạn cứ thấy
những thứ không có, và bạn cứ không thấy những cái đang có. Kí ức phải bị gạt
sang bên. Kí ức là tốt, dùng nó, nhưng chân lí chưa bao giờ được biết tới qua
kí ức cả. Làm sao bạn có thể biết chân lí qua kí ức được? Bạn chưa bao giờ biết
tới chân lí trong quá khứ.
Chân lí là điều
không biết. Chân lí là vị khách lạ. Bạn sẽ phải gạt tất cả mọi kí ức sang bên;
bạn sẽ phải nói với tâm trí, "Im đi, để cho ta thấy mà không có mi! Để ta
nhìn chỉ với sự sáng tỏ, không với đôi mắt vẩn đục: không ý nghĩ, không niềm
tin, không kinh sách, không triết lí, không tôn giáo. Để ta nhìn trực tiếp,
ngay lập tức! Để ta nhìn ở đây bây giờ, để ta nhìn vào trong cái đang đương đầu
với ta." Chỉ thế thì bạn mới hài hoà với bí ẩn của chân lí.
Và nhớ: chân lí
chưa bao giờ trở thành kí ức cả. Ngay cả khi bạn đã biết nó, nó cũng chẳng bao
giờ trở thành kí ức. Chân lí bao la thế, nó không thể nào bị hàm chứa bởi kí ức.
Và bất kì khi nào nó có đó, bạn sẽ biết nó, nó sẽ lại là mới. Nó chưa bao giờ
cũ cả, nó bao giờ cũng mới, nó bao giờ cũng tươi mát. Đó là một trong những phẩm
chất của nó, rằng nó không bao giờ trở nên cũ đi. Nó bao giờ cũng trẻ trung.
Cho nên nếu bạn
muốn biết chân lí, Saraha nói với nhà vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự
muốn biết chân lí của điều đang xảy ra cho ta, xin bệ hạ gạt tâm trí mình sang
bên. Ta biết bệ hạ chỉ giống như ruồi; bệ hạ đã sống trong thân thể và tâm trí,
bệ hạ không biết gì bên ngoài chúng. Ta đang đứng đây; ta ở ngoài cả hai. Và
không có cách nào để giải thích điều đó cho bệ hạ tương ứng theo tâm trí của bệ
hạ; không, điều đó không thể được giải thích. Nếu bệ hạ thực sự muốn kinh nghiệm
nó, bệ hạ có thể kinh nghiệm nó, nhưng nó không thể nào được giải thích."
Thượng đế không
thể nào được định nghĩa. Thượng đế không thể nào được giải thích. Xin nhớ: chớ
bao giờ giải thích điều đó, bởi vì nếu bạn giải thích nó, bạn sẽ giải thích nó
xa xôi đi. Thượng đế không thể nào bị hàm chứa bởi bất kì ý nghĩ nào. Nhưng Thượng
đế có thể được sống, Thượng đế có thể được yêu. Bạn có thể trở thành thượng đế!
- đó là điều có thể - nhưng tâm trí không thể nào chứa đựng được Thượng đế. Tâm
trí là cái bình chứa rất nhỏ, nó giống như chiếc thìa trà vậy - và bạn muốn có
Thái bình dương trong chiếc thìa trà sao? Vâng, bạn có thể có chút ít nước mặn
trong chiếc thìa trà của mình, nhưng điều đó sẽ không cho ý tưởng về Thái bình
dương, về sự bao la. Bão tố sẽ không xảy ra trong chiếc thìa trà của bạn, sóng
lớn sẽ không phát sinh. Vâng, vị nó thì giống thế, nhưng nó sẽ không là đại
dương.
Saraha nói: Nếu
bệ hạn muốn thấy ta, bệ hạ sẽ phải gạt tâm trí mình sang bên. Bệ hạ có tâm trí
của ruồi. Bệ hạ có những thói quen nào đó về suy nghĩ, về cảm giác, bệ hạ có
thói quen sống nào đó. Bệ hạ đã sống một cuộc sống của thân thể và tâm trí, và
nhiều nhất bất kì cái gì bệ hạ đã biết cho tới giờ đều chỉ do bệ hạ nghe thấy,
bệ hạ đã đọc kinh sách... Bản thân Saraha đã đọc kinh sách cho nhà vua trước
đây, anh ta biết điều đó rõ lắm. Anh ta biết điều nhà vua biết: tri thức của
anh ta chỉ là thông tin. Saraha nói: Điều đó đã xảy ra cho ta! Nhưng để thấy điều
đó bệ hạ sẽ cần phẩm chất thấy khác.
Tâm trí không
bao giờ gặp chân lí cả, không bao giờ đương đầu với chân lí. Con đường của tâm
trí và con đường của chân lí là hoàn toàn tách rời. Nó là thực tại tách rời. Do
đó nhấn mạnh của mọi nhà huyền môn trên thế giới là đạt tới trạng thái vô trí.
Đó là điều thiền tất cả là gì: trạng thái vô trí, trạng thái không suy nghĩ - vậy
mà đầy nhận biết, chói sáng với nhận biết. Khi không có một ý nghĩ, bầu trời của
bạn sạch mây, và thế thì mặt trời bừng sáng.
Thông thường chúng
ta bị che phủ bởi nhiều ý nghĩ, ham muốn, tham vọng, mơ mộng đến mức mặt trời
không thể chiếu sáng được. Nó bị che khuất đằng sau những đám mây đem đó: ham
muốn là đám mây, ý nghĩ là đám mây, tưởng tượng là đám mây, và người ta cần được
quang đãng để biết cái đang đó.
Saraha nói:
Những người vứt
bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi
giới của luân hồi thô thiển.
Luân hồi
(samsara) có nghĩa là sống như thân thể, như tâm trí, như bản ngã. Luân hồi
nghĩa là sống hướng ngoại, luân hồi nghĩa là sống với mọi vật. Luân hồi nghĩa
là sống với ý tưởng rằng tất cả đều là vật chất và chẳng có gì khác. Luân hồi
nghĩa là ba chất độc: sức mạnh, danh vọng, thế lực - sống trong thế giới với ý
tưởng có nhiều sức mạnh hơn, nhiều danh vọng hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều thế
lực hơn...thế này và thế nọ; sống trong đồ vật và vì đồ vật. Đó là ý nghĩa của
từ luân hồi - thế giới.
Quan sát bản
thân mình: bạn đã bao giờ sống với con người hay bạn sống chỉ với đồ vật? Vợ bạn
là người hay đồ vật? Chồng bạn là người hay đồ vật? Bạn đối xử với chồng mình
như một con người, như một người có giá trị bản chất, tuyệt vời, hay chỉ như một
thứ tiện dụng, rằng anh ta là người cung cấp bánh mì và bơ, hay rằng cô ta là
người nội trợ, chăm sóc con cái? Vợ bạn có là mục đích tự thân hay cô ấy chỉ là
một thứ tiện dụng, một món hàng để được dùng? Đôi khi bạn dùng cô ấy về mặt dục,
đôi khi bạn dùng cô ấy theo cách khác - nhưng việc dùng người đó có nghĩa là
người đó là một vật với bạn, không phải là người.
Người không thể
được dùng; chỉ vật mới có thể được dùng. Người không thể bị mua bán; chỉ vật mới
có thể được mua bán. Người có giá trị vô cùng thế, thiêng liêng thế, nhân phẩm
thế - làm sao bạn có thể dùng một người được? Vâng, người đó có thể cho tình
yêu của mình, nhưng bạn không thể dùng được. Và bạn phải biết ơn. Bạn đã bao giờ
cám ơn vợ mình chưa? Bạn đã bao giờ cám ơn bố bạn, mẹ bạn chưa? Bạn đã bao giờ
cám ơn bạn bè mình chưa? Đôi khi bạn cám ơn người lạ nhưng chẳng bao giờ cám ơn
những người của riêng mình, bởi vì bạn coi họ như có sẵn.
Sống với đồ vật
là sống trong luân hồi. Sống với người là sống trong niết bàn.
Và một khi bạn
bắt đầu sống với người, mọi đồ vật biến mất. Thông thường ngay cả người cũng bị
thu về đồ vật, còn khi người bắt đầu trở nên thiền thì ngay cả đồ vật cũng bắt
đầu trở thành người; ngay cả cây cối cũng trở thành người, tảng đá cũng trở
thành người. Mọi thứ dần dần bắt đầu có nhân tính, bởi vì Thượng đế lan toả khắp
mọi sự tồn tại.
Saraha nói: Tâu
bệ hạ, bệ hạ đã sống trong luân hồi và bệ hạ không thể hiểu được con đường của
niết bàn. Nếu bệ hạ thực sự muốn hiểu nó, bệ hạ sẽ phải sống nó, không có cách
khác. Để biết, bệ hạ sẽ phải nếm trải cái gì đó của nó. Và ta ở đây, đứng trước
bệ hạ, còn bệ hạ đang yêu cầu giải thích! Niết bàn đang đứng trước bệ hạ, còn bệ
hạ đang yêu cầu các lí thuyết. Không chỉ điều đó - bệ hạ phải hoàn toàn mù
quáng - bệ hạ đã tới để thuyết phục ta quay lại với luân hồi của bệ hạ! Ruồi
đang thuyết phục ta rời bỏ rừng đàn hương cùng hương thơm của nó để lấy mùi ôi
thiu của thịt.
"Bệ hạ có
điên không đấy?" Saraha nói với nhà vua. "Để ta thuyết phục bệ hạ tới
thế giới của ta thay vì bệ hạ thuyết phục ta tới thế giới của bệ hạ. Ta đã biết
thế giới của bệ hạ và ta đã biết thực tại mới này nữa; ta có thể so sánh được.
Bệ hạ chỉ biết mỗi thế giới của mình; bệ hạ không biết thực tại của ta, bệ hạ
không thể so sánh được."
Khi vị phật nói
thế giới này là ảo tưởng, thiền về điều đó, bởi vì ông ấy đã biết thế giới này
nữa. Khi người vô thần nào đó, người duy vật, người cộng sản nào đó nói rằng thế
giới của niết bàn chỉ là ảo tưởng, không cần phải bận bâm về điều đó chút nào,
bởi vì người đó vẫn còn chưa biết nó. Người đó chỉ biết thế giới này; bạn không
thể tin cậy vào câu trả lời của người đó về thế giới khác được. Người đó chưa
bao giờ thiền, người đó chưa bao giờ đi vào trong nó.
Nhìn vào nó đi:
nhìn vào tất cả những người đã thiền, không nhìn vào chỉ một người đã chối bỏ
thực tại bên trong. Không vào chỉ một người! Không một ngoại lệ nào, tất cả các
thiền nhân đều đã trở thành nhà huyền môn. Những người còn chưa thiền, họ chỉ
biết tới thế giới của ruồi và thế giới của mùi hôi hám và hôi thối của thịt ôi.
Họ sống trong thế giới mục nát của đồ vật, nhưng họ chỉ biết điều đó, và chắc
chắn phát biểu của họ không thể nào tin cậy được. Một Phật có thể được tin cậy,
một Christ có thể được tin cậy, một Mahavira có thể được tin cậy; họ đã biết cả
hai. Họ đã biết cái thấp hơn và cái cao hơn, và bởi việc biết cái cao hơn mà họ
nói điều gì đó về cái thấp hơn phải được thiền. Bạn đừng bác bỏ thẳng thừng.
Chẳng hạn:
Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, họ chưa bao giờ thiền cả, và họ nói không có
Thượng đế. Bây giờ điều đó cũng gần như là một người chưa bao giờ tới phòng thí
nghiệm của nhà khoa học và nói điều gì đó về khoa học. Một người chưa bao giờ
đi vào phòng thí nghiệm và nói rằng lí thuyết tương đối chỉ là vật thờ mù
quáng, điều đó không thể tin được. Bạn phải tới phòng thí nghiệm, bạn phải đi
vào trong toán học cao cấp, bạn phải chứng minh nó! Chỉ bởi vì bạn không thể hiểu
nó nên bạn không thể được phép chối bỏ nó.
Có rất ít người
hiểu lí thuyết tương đối. Người ta nói rằng khi Einstein còn sống chỉ có mười
hai người đang sống hiểu lí thuyết của ông ấy, trên khắp thế giới. Và có vài
người nghĩ rằng đấy là điều phóng đại, số đó là không đúng: thậm chí mười hai
người cũng không có đó để mà hiểu đúng lí thuyết của ông ấy. Nhưng bởi vì điều
đó bạn không thể nói nó là không đúng; bạn không thể bỏ phiếu về nó, bạn không
thể làm thất bại nó qua bầu cử. Bạn sẽ phải đi qua cùng những quá trình đó.
Bây giờ Marx
nói không có Thượng đế chỉ đơn giản là một phát biểu ngu xuẩn... Chưa bao giờ
thiền, chưa bao giờ suy tư, chưa bao giờ cầu nguyện - phát biểu của ông ấy chẳng
liên can gì. Những người đã thiền, những người đã đào sâu chút ít vào trong bản
thể mình, họ đều đi tới cùng chân lí.
Những người vứt
bỏ niết bàn
Thèm muốn cõi
giới của luân hồi thô thiển.
Saraha đang
nói: Bệ hạ vứt bỏ niết bàn và bệ hạ cứ chạy xô theo ảo tưởng. Bệ hạ đã tới thuyết
phục ta, thưa bệ hạ? Xin nhìn ta đây, ta cực lạc làm sao! Nhìn ta đây; ta không
phải là cùng con người đã rời bỏ triều đình của bệ hạ, ta là một người hoàn
toàn khác.
Anh ta đang cố
gắng đưa nhận biết của nhà vua về khoảnh khắc hiện tại, và anh ta đã thành
công. Anh ta phải đã là một con người của sự hiện diện vĩ đại. Anh ta kéo nhà
vua ra khỏi thế giới của ruồi nhặng, ra khỏi thế giới của thịt ôi. Anh ta kéo
nhà vua tới thế giới của gỗ đàn hương và hương thơm của nó.
Lời kinh thứ
hai:
Dấu chân bò ngập
nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với
tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm
chất, không hoàn hảo,
Thì những bất
toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Anh ta nói:
Nhìn đây! Một con bò đã bước qua, và còn dấu chân trên đất, và dấu chân này ngập
đầy nước, nước mưa. Nó sẽ có đó bao lâu? Chẳng chóng thì chầy nước sẽ bay hơi,
và dấu chân bò đầy nước sẽ không còn đó chút nào nữa. Nhưng đại dương bao giờ
cũng hiện hữu. Mặc dầu nước trong dấu chân bò cũng là từ đại dương, cái gì đó vẫn
khác.
Đại dương bao
giờ cũng còn lại, không hề tăng, không hề giảm. Những đám mây lớn nảy sinh ra từ
nó, nó chưa bao giờ giảm. Những dòng sông lớn đổ nước vào nó, nó chưa bao giờ
tăng. Nó bao giờ cũng còn như cũ. Nhưng dấu chân nhỏ này của con bò thì đầy nước
bây giờ đấy; trong vài giờ hay vài ngày nó sẽ biến mất, nó sẽ khô đi. Bộ óc của
tâm trí con người cũng vậy: nó chỉ là một dấu chân bò, một thứ nhỏ bé thế. Chỉ
chút ít nước có đó - đừng tin cậy vào nó nhiều, nó đang khô di rồi, nó sẽ biến
mất. Bộ óc là thứ rất nhỏ bé... đừng nghĩ rằng bạn có thể chứa vũ trụ này trong
bộ óc. Và nó chỉ có thể là tạm thời, nó chẳng thể nào là vĩnh hằng được.
Dấu chân bò ngập
nước sẽ sớm khô đi;
Cũng như vậy với
tâm trí vững chắc
Nhưng đầy phẩm
chất, không hoàn hảo,
Thì những bất
toàn này sẽ khô đi theo thời gian
Bạn đang giữ
cái gì trong bộ óc nhỏ bé của mình? Nội dung của nó là gì? Ham muốn, mơ mộng,
tham vọng, ý nghĩ, tưởng tượng, ý chí, xúc động - đây là những vật bạn đang giữ
như nội dung. Chúng tất cả sẽ khô đi, mọi nội dung sẽ khô đi. Cho nên thay đổi
nhấn mạnh từ những nội dung đó và đừng nhìn vào nội dung đó. Bầu trời đầy mây,
đừng nhìn vào mây, nhìn vào bầu trời. Đừng nhìn vào cái có trong đầu bạn, cái
có trong tâm trí bạn; chỉ nhìn vào tâm thức bạn. Xúc động có đó, giận dữ có đó,
tình yêu có đó, tham lam có đó, sợ có đó, ghen có đó - đây là nội dung. Chỉ
ngay sau chúng là bầu trời vô hạn của tâm thức.
Người sống qua
nội dung thì sống cuộc sống của cái máy. Còn người bắt đầu thay đổi nhấn mạnh của
mình từ nội dung sang bình chứa thì bắt đầu sống cuộc sống của nhận biết, của
phật tính.
Và Saraha nói:
Tâu bệ hạ, những nội dung này mà bệ hạ có trong tâm trí sẽ sớm khô di. Bệ hạ
nhìn vào dấu chân bò kia! Đầu bệ hạ không lớn hơn cái đó, bộ óc không lớn hơn
cái đó. Nhưng tâm thức bệ hạ là vô hạn.
Bây giờ điều
này phải được hiểu: xúc động là trong đầu bạn, nhưng tâm thức không trong đầu bạn.
Trong thực tế đầu bạn là trong tâm thức bạn! Tâm thức là bao la, vô hạn. Xúc động,
ham muốn, tham vọng là trong đầu bạn; chúng sẽ khô đi. Nhưng ngay cả khi đầu bạn
đã hoàn toàn bị vứt bỏ và biến mất vào trong đất, tâm thức bạn sẽ không biến mất.
Bạn không chứa tâm thức trong mình; tâm thức chứa bạn, nó lớn hơn bạn.
Có những người
hỏi... đôi khi ai đó tới tôi và hỏi: "Linh hồn ở đâu trong thân thể con người?
Trong tim? trong rốn? Trong đầu? Linh hồn ở đâu?" Họ nghĩ họ đang hỏi một
câu hỏi rất thích đáng. Nó chẳng ở đâu trong thân thể cả: thân thể bạn là ở
trong linh hồn. Linh hồn là hiện tượng lớn hơn thân thể bạn, linh hồn bao quanh
bạn.
Và linh hồn bạn
và linh hồn tôi là không khác nhau! Chúng ta sống trong sự tồn tại, chúng ta sống
trong một đại dương linh hồn. Một linh hồn bao quanh chúng ta, bên trong và bên
ngoài. Nó tất cả là một năng lượng; tôi không có linh hồn khác và bạn không có
linh hồn khác. Chúng ta có các thân thể khác nhau. Điều đó gần giống như điện
chạy trong bóng đèn và chạy trong radio và chạy trong ti vi và làm quạt quay,
và làm cả nghìn lẻ một thứ. Quạt là khác với bóng đèn, nhưng điện làm chúng chạy
là như nhau.
Chúng ta là một
năng lượng. Cách diễn đạt của chúng ta là khác nhau, nhưng thực tại của chúng
ta là một. Nếu bạn nhìn vào nội dung, nếu tôi nhìn vào nội dung, thế thì giấc
mơ của tôi chắc chắn là khác với giấc mơ của bạn. Chúng ta không thể có chung
giấc mơ. Tôi có tham vọng của tôi, bạn có tham vọng của bạn. Và không chỉ chúng
ta không thể có chung giấc mơ: giấc mơ của chúng ta còn xung đột nhau. Tham vọng
của tôi là ngược lại tham vọng của bạn; tham vọng của bạn chống lại tham vọng của
tôi. Nhưng nếu chúng ta quên đi nội dung và chỉ nhìn vào tâm thức, tâm thức thuần
khiết, bầu trời không mây, thế thì 'bạn' ở đâu và 'tôi' ở đâu? Chúng ta là một.
Trong khoảnh khắc
đó có sự thống nhất. Và trong khoảnh khắc đó có tâm thức vũ trụ.
Mọi tâm thức đều
là vũ trụ. Vô thức là riêng tư, tâm thức là vũ trụ. Cái ngày bạn thực sự trở
thành một con người, bạn là con người vũ trụ. Đó là ý nghĩa của 'christ': con
người vũ trụ, con của Thượng đế. Đó là ý nghĩa của 'phật': con người vũ trụ đi
tới nhận biết toàn bộ và tuyệt đối.
Con người như
cái máy lại khác... điều này cần được hiểu. Nếu bạn có vấn đề ở thận, tôi không
có; nếu tôi bị đau đầu, bạn không đau đầu; cho dù bạn yêu tôi thì bạn cũng
không thể chia sẻ đau đầu được. Cho dù tôi yêu bạn nhưng tôi vẫn không thể có
cái đau của bạn được. Nhưng nếu hai chúng ta ngồi cùng nhau và thiền và một khoảnh
khắc tới khi tôi không có nội dung trong tâm trí mình và bạn cũng không có nội
dung nào trong tâm trí bạn, chúng ta sẽ không là hai. Các thiền nhân bắt đầu
như sự tách biệt, nhưng cuối cùng như một.
Nếu các bạn tất
cả ngồi trong thiền ở đây, lắng nghe tôi, thế thì các bạn không là nhiều, thế
thì các bạn là một. Thế thì các bạn không chỉ là một: người nói và người nghe
không tách biệt, thế thì chúng ta được bắc cầu với nhau. Hai mươi thiền nhân
trong một phòng thiền, khi họ đi tới việc thiền thực, không còn là hai mươi nữa:
chỉ có một phẩm chất thiền trong phòng.
Có một câu chuyện...
Vài người tới gặp
Phật. Ananda đang ngồi canh ở ngoài phòng, nhưng những người này lấy quá nhiều
thời gian đến mức Ananda trở nên lo nghĩ. Nhiều lần ông ấy nhìn vào, nhưng họ vẫn
tiếp tục và cứ tiếp tục, tiếp tục... Thế rồi ông ấy đi vào trong phòng để xem
điều gì xảy ra. Và tại đó ông ấy chẳng thấy ai cả, chỉ Phật ngồi. Cho nên ông ấy
hỏi Phật, "Những anh chàng kia đi đâu cả rồi?" Và không có cửa
khác... mà tôi lại đang ngồi ngay cái cửa duy nhất, cho nên họ đã đi đâu rồi?"
Và Phật nói,
"Họ đang thiền."
Đấy là một câu
chuyện hay. Tất cả họ đều rơi vào trong thiền, còn Ananda đã không thể nào thấy
được họ bởi vì ông ấy vẫn không phải là thiền nhân. Ông ấy không thể nào thấy
được hiện tượng mới này, sự dịch chuyển hoàn toàn của năng lượng. Họ đã không
có đó, bởi vì họ đã không như thân thể họ ở đó, họ đã không như tâm trí họ ở
đó. Những bản ngã này đã tan biến. Ananda chỉ có thể thấy điều ông ấy có thể thấy.
Một thực tại đã xảy ra.
Một vị vua lớn
có lần tới gặp Phật. Tể tướng của ông ấy khuyên ông ấy tới, nhưng ông ấy là con
người rất đa nghi, như các chính khách và vua thì thường vậy, rất đa nghi. Ông ấy
đã không muốn tới ngay chỗ đầu tiên... Chỉ bởi lí do chính trị mà ông ấy tới để
gặp Phật bởi vì trong thủ đô tin đồn đang lan truyền rằng ông ấy chống lại Phật;
còn mọi người lại ủng hộ Phật, cho nên ông ấy trở nên sợ hãi, điều đó không ngoại
giao. Cho nên ông ấy tới cùng tể tướng của mình.
Khi ông ấy tới
khu rừng nhỏ nơi Phật đang ngồi cùng với mười nghìn sư của mình, ông ấy bắt đầu
trở nên rất sợ hãi. Ông ấy tuốt kiếm ra và ông ấy nói với tể tướng, "Có
chuyện gì vậy? - bởi vì khanh nói mười nghìn người đang ở đó, và chúng ta tới gần
thế mà chẳng có tiếng động nào cả! Liệu có mưu đồ gì không?"
Tể tướng cười
và nói, "Bệ hạ không biết người của Phật. Cất kiếm đi! Bệ hạ cứ tới đi -
không có mưu đồ hay cái gì cả. Bệ hạ không cần phải sợ, họ không định giết bệ hạ.
Bệ hạ không biết người của Phật."
Nhưng rất đa
nghi, vẫn lăm lăm cây kiếm trong tay, nhà vua đi vào trong khu rừng. Ông ta sửng
sốt. Ông ta không thể nào tin được có mười nghìn người đang ngồi dưới gốc cây một
cách im lặng, dường như không có ai cả. Ông ta hỏi Phật, "Đây là phép màu!
- mười nghìn người... ngay cả mười người cùng nhau cũng tạo ra nhiều ồn ào thế!
Những người này làm gì vậy? Điều gì đã xảy ra cho những người này, cái gì đã đi
sai sao? Họ vẫn còn sống chứ? - họ trông như tượng cả! Và họ đang ngồi đây làm
gì vậy? Họ phải làm cái gì chứ!"
Còn Phật nói,
"Họ đang làm cái gì đó, nhưng điều đó chẳng liên quan gì tới bên ngoài cả.
Họ đang làm điều gì đó trong thế giới bên trong của mình. Họ không trong thân
thể mình, họ trong bản thể mình, tại chính cốt lõi. Và đây không phải là mười
nghìn người ngay lúc này, họ tất cả đều là một phần của một tâm thức."
Lời kinh thứ
ba:
Giống như nước
biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây
hút lên,
Cũng vậy một
tâm trí vững chắc, làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc
của đối tượng giác quan
Thành nước cam
lồ.
Thái độ Mật
tông cơ bản là: Bản năng dục có thể được biến đổi thành cái siêu phàm, vật chất
có thể được biến đổi thành tâm trí, vô thức có thể được biến đổi thành tâm thức.
Vật lí hiện đại
nói vật chất có thể được biến đổi thành năng lượng, năng lượng có thể được biến
đổi thành vật chất. Trong thực tế chúng không phải là hai mà là cùng một năng
lượng vận hành như hai dạng. Mật tông nói dục có thể được biến đổi thành
samadhi - cùng cách tiếp cận ấy, rất cơ bản và cơ sở. Cái thấp hơn có thể được
biến đổi thành cái cao hơn, bởi vì cái thấp hơn và cao hơn được nối với nhau;
nó là chiếc thang. Chúng không bao giờ tách rời, không ở đâu tách rời, không có
lỗ hổng giữa chúng. Bạn có thể đi từ thấp lên cao, bạn có thể đi từ cao xuống
thấp.
Và cái thang đó
là điều con người là gì. Con người có thể tồn tại ở bậc thang thấp nhất; đó là
quyết định của người đó. Con người có thể đi lên, người đó có thể tồn tại ở bậc
thang cao nhất. Người đó có thể tồn tại như con vật hoặc người đó có thể tồn tại
như vị phật: cả hai đều là các bậc thang của người đó, bậc thấp nhất và cao nhất.
Và con người là chiếc thang: người đó có thể rơi vào trong vô thức sâu và trở
thành tảng đá, và người đó có thể vươn lên tâm thức tuyệt đối, và có thể trở
thành thượng đế. Nhưng chúng không tách biệt, đó là cái đẹp của Mật tông.
Mật tông không
mang tính phân chia, Mật tông là tôn giáo duy nhất không tinh thần phân liệt. Mật
tông là tôn giáo duy nhất thực sự lành mạnh, tôn giáo lành mạnh nhất, bởi vì nó
không phân chia. Nếu bạn phân chia, bạn tạo ra chia chẻ. Nếu bạn bảo mọi người
rằng thân thể là xấu, rằng thân thể là kẻ thù, rằng thân thể phải bị lên án, rằng
thân thể đang phục vụ quỉ, thế thì bạn đang tạo ra chia chẻ trong con người, thế
thì con người trở nên sợ thân thể. Và thế thì dần dần sẽ tạo ra cái hố sâu
không thể bắc cầu qua được và con người bị kéo vào hai phần, con người bị giằng
xé theo hai hướng đối lập. Thân thể kéo thân thể thành hai, tâm trí cố gắng kéo
tâm trí thành hai; có xung đột và lẫn lộn.
Mật tông nói bạn
là một, không cần phải có bất kì lẫn lộn gì. Bạn có thể được hợp nhất lại trong
một thực tại. Không cần phải có bất kì xung đột nào, không cần phải bị xé ra,
không cần phải mất trí. Bạn có thể yêu tất cả những cái đang có sẵn, và bạn có
thể làm tiến hoá nó - với tình yêu sâu sắc, sự chăm nom, tính sáng tạo, nó có
thể được tiến hoá. Thân thể không phải là kẻ thù của linh hồn bạn, thân thể chỉ
là bao gươm của thanh gươm của bạn. Thân thể chỉ là ngôi đền, nó là chỗ trú ngụ
của bạn. Nó không phải là kẻ thù, nó là bạn của bạn.
Mật tông vứt bỏ
mọi loại bạo hành, không chỉ bạo hành với người khác mà bạo hành với chính
mình. Mật tông nói: Yêu thực tại trong tính toàn bộ của nó. Vâng, nhiều điều có
thể được tiến hoá, nhưng mọi tiến hoá đều là thông qua tình yêu. Và không cần
đánh nhau.
Giống như nước
biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây
hút lên…
Bạn không thể uống
nước biển mặn đựơc, nó mặn thế; nó toàn là muối. Bạn sẽ chết nếu bạn uống nước
biển. Nhưng khi một đám mây tới và rút nước từ biển, nó biến thành ngọt, và thế
thì bạn có thể uống được nó.
Saraha nói:
Samadhi giống như đám mây, năng lượng thiền giống như đám mây, cái biến bản
năng dục của bạn thành những thực tại cao hơn, cái biến sự tồn tại vật lí của bạn
thành sự tôn tại phi vật lí, cái biến vị mặn chát, kinh nghiệm đắng cay về thế
giới thành đường ngọt, kinh nghiệm tựa nước cam lồ về niết bàn. Bản thân luân hồi
trở thành niết bàn nếu bạn có thể tạo ra đám mây làm biến đổi nó. Đám mây đó Phật
thực tế đã gọi là dharmamegha samadhi, samadhi của đám mây của luật nền tảng –
dharmamegha samadhi.
Bạn có thể tạo
ra được đám mây đó. Đám mây đó được tạo ra bằng thiền. Bạn thiền mãnh liệt, vứt
bỏ các ý nghĩ, vứt bỏ các ham muốn, tham vọng… dần dần tâm thức bạn là ngọn lửa
bùng cháy - đám mây đó có đó. Bây giờ bạn có thể biến đổi bất kì cái gì qua ngọn
lửa đó; ngọn lửa đó làm chuyển hoá, ngọn lửa đó là giả kim thuật. Qua thiền cái
thấp hơn trở thành cái cao hơn, sắt cơ sở hơn biến thành vàng.
Giống như nước
biển mặn biến thành ngọt
Khi được mây
hút lên,
Cũng vậy một
tâm trí vững chắc, làm việc vì người khác,
Sẽ biến chất độc
của đối tượng giác quan
Thành nước cam
lồ.
Hai điều: thứ
nhất, người ta phải tạo ra đám mây thiền trong bản thể của mình; và điều thứ
hai là từ bi - người làm việc vì người khác. Phật nhấn mạnh vào hai điều: thiền
và từ bi, pragyan và karuna. Ông ấy nói rằng đôi khi chuyện xảy ra là một thiền
nhân có thể trở thành ích kỉ quá nhiều; thế nữa điều gì đó sẽ thành chua ra.
Thiền, vui sướng, nhưng chia sẻ vui sướng đó, chia sẻ nó đi. Đừng tích trữ nó,
bởi vì một khi bạn bắt đầu tích trữ, bản ngã bắt đầu nảy sinh. Đừng bao giờ
tích trữ cái gì. Khoảnh khắc bạn được nó, đem cho nó đi, và bạn sẽ được ngày
càng nhiều hơn. Bạn càng cho đi nhiều, bạn lại càng nhận được nhiều. Thế thì mọi
thứ trở thành cam lồ. Mọi thứ là cam lồ; chúng ta chỉ phải biết cách biến đổi
nó, chúng ta phải biết thuật giả kim.
Câu kinh cuối:
Nếu không thể
nói ra được,
Đừng bao giờ là
người không được thoả mãn,
Nếu không thể
tưởng tượng được,
Điều đó phải là
bản thân phúc lạc.
Mặc dầu từ đám
mây người ta sợ tiếng sấm nổ.
Mùa màng vẫn
chín rộ
Khi từ đó mưa
rơi xuống.
Không thể tả được...
Saraha nói: Đừng hỏi ta nó là gì - điều đó là không thể tả được, điều đó không
thể nói ra được. Điều đó không thể được diễn tả, không ngôn ngữ nào hiện có mà có
thể diễn tả được nó. Nhưng nó có thể được kinh nghiệm. Nhìn mãn nguyện của ta
đây! Nhìn xem ta đã trở nên được thoả mãn thế nào! Bệ hạ đã biết ta từ trước nữa,
ta đã bất an làm sao, không thoả mãn với mọi thứ làm sao. Và tất cả đều có sẵn;
ta là ái khanh của bệ hạ, tất cả mọi thứ đều sẵn cho ta, vậy mà ta vẫn không
thoả mãn. Bây giờ, bệ hạ nhìn xem! Ta đang đứng trong bãi hoả thiêu, thậm chí
không có một mái lều trên đầu! Và ta không sống với vua và hoàng hậu, ta đang sống
với người đàn bà rèn tên này. Nhưng nhìn vào mắt ta… ta mãn nguyện làm sao. Bệ
hạ không thể thấy được cái gì đó không diễn tả nổi đã xảy ra đó sao? Bệ hạ
không thể cảm thấy rung động của ta sao? Bệ hạ đờ đẫn và chết đến mức bệ hạ phải
cần lời giải thích sao?
Nếu mà không thể
tả được, chẳng bao giờ người ta lại không được thoả mãn cả...
Nếu không thể
nói ra được,
Đừng bao giờ là
người không được thoả mãn,
Đó là tiêu chuẩn
duy nhất cho liệu một người đã đạt tới chân lí hay chưa: người đó sẽ không bao
giờ không thoả mãn, mãn nguyện của người đó là tuyệt đối. Bạn không thể lôi người
đó ra khỏi mãn nguyện của mình được, bạn không thể làm cho người đó không bằng
lòng; bất kì điều gì xảy ra, người đó vẫn vậy, hài lòng. Thành công hay thất bại,
sống hay chết, bạn hay không bạn, người yêu hay không người yêu, không có khác
biệt. Yên bình của người đó, tĩnh lặng của người đó là hoàn toàn tuyệt đối. Người
đó được định tâm… Nếu không thể nói ra được, đừng bao giờ là người không thoả
mãn.
Nếu điều không
thể nào được nói ra lại xảy ra, thế thì chỉ có một cách để biết nó, và cách đó
là thấy mãn nguyện.
Nếu không thể
tưởng tượng được,
Điều đó phải là
bản thân phúc lạc.
Và ta biết, anh
ta nói: Bệ hạ không thể hình dung ra được điều đã xảy ra cho ta. Làm sao bệ hạ
có thể hình dung ra được? Bởi vì bệ hạ chưa từng biết tới điều đó. Tưởng tượng
bao giờ cũng lặp lại cùng điều bệ hạ đã biết.
Bạn có thể tưởng
tượng hạnh phúc; bạn đã biết từng chút và từng mẩu của nó. Bạn có thể tưởng tượng
bất hạnh; bạn đã biết nó, nhiều về nó. Bạn có thể tưởng tượng hạnh phúc cho dù
bạn đang không biết hạnh phúc. Bạn có thể tưởng tượng nó như cái ngược lại với
bất hạnh. Nhưng làm sao bạn có thể tưởng tượng được phúc lạc? Bạn không biết
nó. Và chẳng có gì mâu thuẫn nó cả, nó là không nhị nguyên. Điều đó là không thể
tưởng tượng nổi.
Cho nên Saraha
nói: Ta có thể hiểu được... bệ hạ không thể tưởng tượng ra điều đó được, nhưng
ta không nói tưởng tượng nó. Nhìn đây! Nó đang hiện diện ở đây và bây giờ. Và nếu
bệ hạ không thể tưởng tượng ra nó, điều đó nữa cũng là một trong những tiêu chuẩn
của chân lí: chân lí không thể nào được tưởng tượng ra. Nó có thể được thấy,
nhưng không được tưởng tượng. Bệ hạ có thể có linh ảnh về nó, nhưng bệ hạ không
thể mơ về nó được. Và đó là khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh.
Giấc mơ là của
bạn.
Linh ảnh không
phải là của bạn.
Christ thấy Thượng
đế, và kinh sách nói ông ấy thấy linh ảnh. Bây giờ nhà phân tâm sẽ nói đấy chỉ
là giấc mơ; ông ấy không biết khác biệt giữa giấc mơ và linh ảnh. Giấc mơ là của
bạn: bạn đã tưởng tượng, bạn đã tạo ra nó, nó bao giờ cũng là phóng tác của bạn.
Linh ảnh là cái gì đó xuất phát từ trời xanh mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới, thậm
chí bạn cũng chưa bao giờ nghĩ tới một phần của nó. Nó hoàn toàn mới thế… thế
thì nó là linh ảnh. Nếu không thể nào tưởng tượng ra nổi, nó phải là bản thân
phúc lạc...
Nhìn vào tôi -
bạn không thể hình dung ra được điều đã xảy ra. Bạn không thể thấy được nó sao?
Bạn có mắt để thấy - nhìn, quan sát, cầm tay tôi! Lại gần tôi hơn, mong manh với
tôi, để cho rung động của tôi có thể làm rung động bản thể bạn, và điều không
thể tưởng tượng nổi và không thể nói được có thể được kinh nghiệm.
Mặc dầu từ đám
mây người ta sợ tiếng sấm nổ…
Và Saraha nói:
Ta biết.... Anh ta phải đã thấy nhà vua có chút ít sợ hãi. Tôi thấy điều đó
hàng ngày. Mọi người tới tôi và tôi thấy họ run rẩy, sợ hãi, hoảng hốt, kinh
hoàng, và họ nói, "Chúng tôi sợ lắm, Osho." Tôi biết! Saraha phải đã
thấy nhà vua đang run rẩy sâu bên trong… có thể không ở bên ngoài. Ông ta là một
vị vua lớn, ông ta phải là người rất kỉ luật, ông ta phải đã đứng thẳng - nhưng
sâu bên dưới ông ta phải đã sợ hãi.
Điều đó bao giờ
cũng xảy ra khi bạn ở gần một người như Saraha, hay người như Phật, bạn nhất định
sợ. Mới đêm hôm nọ một thanh niên tới và anh ta nói, "Nhưng sao tôi sợ thầy?
Thầy đã chẳng làm điều gì sai với tôi cả - sao tôi sợ thầy? Chắc chắn tôi yêu
thầy, nhưng sao tôi lại sợ thầy?"
Điều đó là tự
nhiên. Khi bạn tới gần vực thẳm, bạn trông đợi điều gì? - bạn sẽ sợ. Có mọi khả
năng bạn có thể rơi vào trong nó và sẽ không thể nào khôi phục lại mình nữa; điều
đó sẽ là không thể khôi phục lại được, không thể phục hồi được. Bạn sẽ mất đi
hoàn toàn, toàn bộ vào trong nó. Bạn sẽ không có khả năng kéo lại. Sợ là tự
nhiên.
Saraha nói: Mặc
dầu từ đám mây người ta sợ tiếng sấm nổ… Anh ta nói: ta giống như đám mây và bệ
hạ sợ hãi bởi vì tiếng sấm, vì sét. Nhưng nhớ lấy. Mùa màng chín rộ khi từ đám
mây đó đổ mưa xuống. Nếu bệ hạ cho phép ta mưa lên bệ hạ, hạt mầm sẽ mọc, tâu bệ
hạ, và con người vẫn ẩn kín đằng sau bệ hạ, vẫn còn chưa được sinh ra, sẽ được
sinh ra. Bệ hạ sẽ có khả năng chín, chín muồi, bệ hạ sẽ có khả năng nở hoa. Ta
mời bệ hạ, Saraha nói, với một mùa màng bội thu… mùa màng của tâm thức, mùa
màng của nhận biết.
Xem tiếp – Quay
về Mục lục