Osho - Thế giới những Mật Điển
Mật Điển:
Đơn giản nhìn bầu trời vượt qua những
đám mây,
Sự trong sáng.
Lắng nghe giáo lý tối hậu được truyền
đạt.
Mắt bất động không nháy.
Ngay lập tức hoàn toàn tự do.
Nhìn vững vàng không chao đảo vào vực
sâu thẳm,
Cho đến khi hiểu tính chất kỳ diệu.
Nhìn vật thể,
Từ từ rút khỏi cái nhìn,
Từ từ rút tư tưởng ra khỏi vật thể.
Chúng ta thường
xuyên sống phiến diện bên ngoài. Nhưng đó chỉ là sự giam hãm trong những giới hạn.
Cảm tính chính là biên giới và tâm thức thì lắng sâu tận trung tâm. Chúng ta sống
trong cảm giác. Đó là tự nhiên. Nhưng sự tự nhiên này không phải là sự tuôn chảy
tối hậu, mà chỉ là bước khởi đầu.
Khi sống
trong cảm xúc, thông thường chúng ta quan tâm đến những vật thể, bởi vì lúc nào
quan tâm về đối tượng. Thí dụ: Mắt không thể hữu dụng ngoại trừ có cái gì đó để
nhìn. Nghe cũng vô ích trừ khi có điều gì đó để nghe, và tay không thể sử dụng
ngoại trừ có một cái gì để sờ chạm.
Chúng ta sống
bằng những giác quan; và từ đó tạo thành những cảm xúc. Do đó, lúc nào cũng lệ
thuộc vật thể hay đối tượng. Giác quan giới hạn con người trong thân vật lý. Vật
thể thì không, nó vượt ra khỏi những phạm trù. Vì thế có ba điểm phải hiểu rõ
ràng trước khi tiếp cận những kỹ thuật:
Đầu
tiên:
Sự rõ biết là
trung tâm.
Thứ
hai:
Giác quan
thông qua sự rõ biết chuyển di ra phạm vi.
Thứ
ba:
Sự rõ biết
các vật thể khách quan;
Chuyển di
xuyên qua giác quan vượt khỏi phạm vi.
Cần hiểu tường
tận rõ ràng
và có ba điều
cần ghi nhớ về tâm thức:
Sự rõ biết là
trung tâm.
Giác quan bị
giới hạn.
Vật thể vượt
ra khỏi phạm vi.
Khi ứng dụng
kỹ thuật sẽ rất đơn giản và dễ dàng cho các bạn.
Nhìn theo nhiều
chiều hướng. Đầu tiên giác quan nằm giữa, nó là trung gian. Góc cạnh này là
trung tâm và góc cạnh kia là thế giới ngoại biên. Giác quan là trung gian giữa
hai thế giới. Từ giác quan bạn có thể chuyển di theo chiều hướng nào cũng được
và khoảng cách như nhau. Giác quan là cánh cửa mở cả hai hướng chuyển di ra ngoại
biên hay quay trở về trung tâm.
Bạn đang sống
trong những giác quan. Đó là lí do tại sao một trong những thiền gia nổi tiếng,
Bokuju nói rằng: "Đừng nghĩ Niết bàn ở một nơi chốn xa xăm nào đó mà Niết
bàn và thế gian đều ở cùng một khoảng cách"
Câu nói này
làm cho chúng ta rối rắm và lúng túng. Vì đã nhầm lẫn cho rằng Niết bàn hay
Thiên đàng ở tận đâu đâu; và thế gian thì rất gần gũi và ngay tại đây. Nhưng
Bokuju nói thật chính xác: "Cả hai đồng hiện hữu cùng khoảng cách"
Thế gian ngay
tại đây thì Niết bàn cũng ngay tại đây. Cũng có thể Niết bàn gần gũi hơn thế
gian. Niết bàn có chiều hướng hướng nội và thế giới khách quan thì hướng ngoại,
sự thực khoảng cách như nhau. Từ quan kiến của tôi, trung tâm của tôi gần gũi
như các bạn đang bên cạnh.
Tôi có thể
nhìn thấy bạn nếu hướng ngoại và nhìn thấy bản thể nếu hướng vào bên trong.
Chúng ta ở ngay cánh cửa của giác quan tự nhiên của thân vật lý giống như tâm
thức hướng ngoại.Bạn cần thực phẩm để ăn, cần nước để uống, cần nơi nương trú.
Tất cả những thứ đó cần thiết cho thân vật lý và chỉ tìm thấy những nhu cầu này
ở thế giới bên ngoài.
Tất cả đều
theo trật tự tự nhiên vận hành; và tri thức chuyển động thông qua giác quan hướng
ra thế giới bên ngoài. Nhưng khi tri thức đã thỏa mãn vì quá đầy đủ sẽ chẳng
bao giờ chuyển di vào trong.
Thí dụ: Nếu đứa
trẻ sinh ra thực phẩm đã tự đầy đủ. Nó sẽ chẳng cần đến mẹ. Người mẹ trở thành
vô dụng, vì đối với đứa trẻ người mẹ không có ý nghĩa, thực phẩm mới là ý nghĩa.
Nhưng trong thực tế người mẹ cung cấp cho nó thực phẩm và những thoả mãn cần
thiết. Nếu không có mẹ, nó không thể tồn tại. Vì thế, nó cần tình yêu thương của
mẹ. Như thế có nghĩa là tình yêu đến sau, vì mẹ là người sẽ đáp ứng cho nó những
đều cần thiết và cơ bản của cuộc sống.
Nếu mẹ nuôi
con bằng sữa bình, không thể mong mõi tình yêu nhiều nơi đứa bé. Vì đối với nó,
thực phẩm là thiết yếu. Người mẹ đến đứa con chỉ qua con đường cung ứng thực phẩm.
Như thế có nghĩa là thực phẩm và tình thương liên quan với nhau rất sâu sắc.
Cũng có nghĩa là tình thương được thỏa mãn, thực phẩm sẽ trở thành thứ yếu và
ngược lại.
Những ai yêu
và được yêu sẽ thặng dư thực phẩm vì học chỉ cần rất ít. Đó là một trong những
điều căn bản. Nhưng những ai không có tình yêu sẽ thay thế bằng thực phẩm vì họ
cần ăn rất nhiều để bù vào sự khiếm khuyết.
Đối với trẻ
con, thực phẩm là nhu cầu. Nhưng nếu sinh ra đã tự đầy đủ và không cần thực phẩm,
không cần sự giúp đỡ từ bên ngoài. Bạn có nghĩ nó chuyển dị hướng ngoại không.
Không cần thiết; vì chúng ta hướng ngoại không phải vì đau khổ mà do nhu cầu thỏa
mãn từ vật thể hay đối tượng.
Tại sao chúng
ta không có chiều hướng hướng nội. Bởi vì chúng ta chưa sẵn sàng để quay vào
trong. Một khi những nhu cầu cần thiết sẵn có, rất dễ dàng chuyển di đi vào nội
tại hay chuyển di ra thế giới ngoại biên.
Những nhu cầu
cần thiết là gì? Sự cần thiết là quan tâm đến tôn giáo. Bạn không thể nào quan
tâm đến tôn giáo trừ khi nhận ra sự cần thiết. Nhưng làm sao để thiết lập sự cần
thiết? Và qua tiến trình nào chúng ta có thể ý thức sâu sắc việc rất cần thiết
là hướng nội? Vì thế có ba điều sau đây được giới thiệu:
Thứ
nhất: Cái
chết.
Tất cả nhu cầu
thiết yếu trong cuộc sống thúc đẩy bạn hướng ngoại. Nếu muốn bước vào thế giới
nội tại, cái chết là nền tảng cần quan tâm tiên quyết. Bằng ngược lại, bạn chẳng
bao giờ muốn khám thế giới tâm linh.
Đó là điều đã
xảy ra cho đức Phật. Khi người rõ biết sâu sắc về cái chết và từ đó khởi đầu
chuyển động hướng nội. Như thế cũng có nghĩa là khi nào bạn bắt đầu ý thức hoàn
toàn về cái chết, bạn sẽ thấy việc quay trở lại là cần thiết.
Đời sống chiều
hướng ngoại, trừ khi bạn ý thức về cái chết, nếu không tôn giáo trở thành vô
nghĩa với bạn. Vì thế tôn giáo không có ý nghĩa với loài vật. Vì nó đang sống, sống
một cách mãnh liệt hơn cả con người nhưng không bao giờ ý thức về cái chết.
Nó không thể
nhận thức về cái chết. Nó không nhận thấy cái chết trong tương lai. Nó nhìn thấy
cái chết của những động vật khác, nhưng chẳng bao giờ biết rằng cái chết cũng xảy
ra với nó. Có lẽ như thế nó không rơi vào đau khổ.
Đối với các bạn,
chết cũng chỉ xảy ra cho người nào đó. Như thế có nghĩa là bạn vẫn còn sống
trong tập quán bản năng của loài vật. Nếu không ý thức về cái chết, bạn chẳng
thể là con người. Đó là sự khác biệt rất lớn giữa con người và loài vật.
Loài vật
không hề nhận thức về cái chết, chỉ con người mới có khả năng này vì có tư tưởng
để ý thức. Nếu không ý thức về chết, bạn chưa hẳn là con người và chỉ có con
người mới hình thành ý niệm phải quay vào bên trong.
Đối với tôi "Con
người" đồng nghĩa với ý thức về cái chết. Tôi không nói sự hoảng hốt khi
biết rằng chúng ta phải chết. Trường hợp này không phải tỉnh thức. Ý thức vấn đề
mà chết sắp sửa xảy đến cận kề và cấp thiết. Thế nên, chúng ta nên chuẩn bị sẵn
sàng để đón nhận.
Nếu đời sống
có sự cần thiết riêng của nó, thì cái chết cũng có sự khẩn thiết riêng. Đó là lí
do tại sao những người trẻ trong xã hội không quan tâm đến tôn giáo vì họ không
hề nghĩ rằng mình sẽ chết. Cái chết không phải là điều làm cho họ phải quan tâm.
Đối với người
già; thí dụ như ở Ấn Độ, một trong những xã hội cổ xưa quan tâm đến cái chết; nền
tảng ý thức về cái chết đã ăn sâu tại Ấn độ; và cái chết đã trở thành tôn giáo.
Vậy, điều đầu tiên là: Chúng ta cần phải ý thức về cái chết.
Suy gẫm về điều
đó, ngắm nhìn và tư duy về nó. Đừng sợ hãi, đừng trốn tránh sự thật: "Mọi
người đang đi đến cái chết." Cái chết lúc nào cũng hiện diện không thể nào
trốn tránh. Nó đến cùng lúc với sự sống của bạn.
Sự chết xuất
hiện cùng với bạn lúc vừa có mặt trong cuộc sống này. Bạn không thể né tránh
cái chết. Nó ẩn kín bên trong bạn. Thế nên, chỉ cần ý thức về nó. Khoảnh khắc ý
thức về nó là bạn đang tiếp cận với cái chết. Khi nhận thức được chết là điều
hiển nhiên, tâm thức bạn bắt đầu nhìn với một chiều hướng khác.
Thực phẩm chỉ
cần thiết cho thân vật lý không cần cho tâm thức. Nhưng cho dù có đầy đủ thực
phẩm bạn cũng phải chết. Thực phẩm không thể nào bảo vệ an toàn mạng sống, cũng
không thể trì hoãn ngày chết của bạn. Nếu bạn sống trong sự sung túc và giàu có;
điều này cũng không thể bảo vệ bạn thoát khỏi bàn tay của thần chết. Cũng không
thể giúp bạn chết trong bình an và thanh thản.
Trong cuộc sống
có thể giàu sang hay nghèo hèn, nhưng cái chết thì bình đẳng. Cho dù như thế
nào đi nữa, tất cả đều phải chết. Trong cuộc sống, bình đẳng là điều không thể;
nhưng với cái chết hoàn toàn có thể (bình đẳng).
Hãy ý thức và
tư duy về cái chết. Tri thức rất hạn hẹp và nông cạn. Bạn không thể suy nghĩ quá
ba mươi năm. Sau ba mươi năm cái chết sẽ đến, cũng có thể đến sớm hơn. Nhưng ba
mươi năm có vẻ quá dài; và cái chết như không thể đến với bạn.
Nếu biết tư
duy về cái chết, bạn sẽ nhận biết vấn đề khác về cái chết. Nó có thể xảy ra
ngay giây phút tới, cũng có thể khoảnh khắc kế tiếp bạn không nghe trọn những
điều tôi nói, và tôi cũng không có khả năng hoàn tất.
Ông ngoại tôi
thường nói: Khi tôi sinh ra , ông có bàn thảo với chiêm tinh gia nổi tiếng thời
đó, mời ông hình thành Kundali (Vận mệnh của tôi). Ông nói nếu đứa trẻ này có
thể sống; sau bảy tuổi tôi mới hình thành đồ thị; nếu không, cũng vô ích và vô
dụng. Thế là ông không hình thành Kunladi.
Không biết vì
may mắn hay không, tôi vẫn tồn tại. Ông tôi đến nhà chiêm tinh gia, nhưng ông
đã qua đời. Tôi thường xuyên thắc mắc vấn đề này. Ông ta ý thức sự chết có thể
xảy ra cho đứa bé, nhưng không ý thức ông cũng phải chết.
Ông ta không
phải là người bình thường, nhưng dường như ông hoàn toàn chẳng quan tâm hay rõ
biết về cái chết. Chúng ta cũng thế. Vì cái chết thường làm chúng ta sợ hãi. Và
tôi thường ngờ vực các chiêm tinh gia chẳng bao giờ biết vận mệnh của chính
mình hay chẳng bao giờ ý thức về cái chết sẽ đến với mình.
Chết có thể xảy
ra bất cứ lúc nào. Nhưng tri thức không bao giờ tin như thế. Tôi nói cái chết
phải xảy ra; nhưng tri thức của các bạn lại nói: "Không. Làm sao có thể
ngay giây phút kế tiếp nó đến. Sự thực cái chết còn xa lắm."
Đó là sự lường
gạt và dối trá của tri thức cho bạn trì hoãn và không tư duy về cái chết. Nó rất
gần và có thể cảm nhận về nó. Khi tôi nói giây phút tới cái chết có thể xảy ra;
có nghĩa là tôi nhấn mạnh rằng: "Cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào."
Con người
đang chết, trước đó người ta chưa bao giờ nghĩ cái chết cận kề như thế. Nhưng nó
luôn luôn xảy ra trong từng sát na. Hãy cho cái chết đến gần bạn và nên tập
trung về nó. Mỗi một sự lưu tâm cho dù thật nhỏ cũng hỗ trợ cho bạn tiếp cận và
chuẩn bị bước vào cái chết. Thế là sự cần thiết và đầy mới lạ sẽ hình thành.
Thứ hai: Bạn vẫn tiếp
diễn sự sống; bạn vẫn thiết lập ý nghĩa cho dù giả tạo.
Mình đang sống
trong từng giây phút. Bạn chẳng bao giờ nghĩ cuộc sống bạn trọn vẹn và có ý
nghĩa hay là không. Bạn thường sáng tạo ra ý nghĩa về cuộc sống rồi đặt mình
vào ý nghĩa đó. Vì thế, người nghèo có thể hạnh phúc và có ý nghĩa hơn những
người giàu có. Vì với người nghèo, những vật được cho đều rất có ý nghĩa đối với
họ.
Nếu bạn giàu
có, bạn có thể có đầy đủ mọi thứ. Vì thế nên cuộc đời không thể ban tặng cho bạn
bất cứ điều gì. Đời sống bạn trở nên vô nghĩa. Bạn không thể hình thành bất cứ
ý nghĩa nào khác trong cuộc sống cho dù một khoảnh khắc để bạn thực sự biết sống.
Người nghèo
quan tâm sẽ có một căn nhà, và phải qua nhiều năm làm việc cực nhọc để có nó.
Như thế đời sống rất ý nghĩa vì có mục tiêu để đạt được. Và khi làm chủ được
căn nhà thì họ vui mùng và rất hạnh phúc dù chỉ vài ngày. Nhưng sau đó lại muốn
căn nhà lớn hơn và cứ thế tiếp tục làm việc. Thế là tiếp tục chuyển di trong
vòng lẩn quẩn. Chẳng bao giờ biết đời sống mình trọn vẹn.
Bạn thử mô phỏng
mình đã có tất cả mọi thứ: Nhà cửa, xe cộ... Thế là những giấc mộng được thỏa
mãn. Vậy bây giờ cái gì sẽ đến đây? Bất ngờ ý nghĩa tan biến. Bạn đang đứng
trên vực thẳm cho dù đã được cả thế giới. Nhưng sau đó thì sẽ thế nào? Và cái
gì sẽ tiếp tục?
Alexander đến
Ấn độ, gặp Diogenes có thể nói là người có tâm thức thấu suốt. Ông sống trần trụi
giống như Mahariva; và có thể nói ông là Mahariva của Hy lạp. Ông đã từ bỏ mọi
thứ. Nhưng từ bỏ vật chất để được điều gì? Nếu thế không phải là sự từ bỏ chân
chính. Nếu bạn từ bỏ vật chất để được điều gì khác, nếu buông bỏ lạc thú của
thân để được hạnh phúc tinh thần; đó chính là sự trả giá.
Ông từ bỏ mọi
thứ để được cái gì? Ông muốn nhìn thấy mình không còn gì cả, thế thì cuộc sống
có ý nghĩa hay không? Ông nghĩ: "Nếu con người không có gì để sở hữu, cái
chết sẽ không thể hủy diệt, vì chết là hủy hoại sự sở hữu, và thân vật lý cũng
là tài sản được sở hữu."
Ông bỏ hết,
chỉ giữ lấy cái bát gổ để uống nước. Ngày nọ ông thấy đứa bé uống nước bằng đôi
bàn tay chính mình. Ông lập tức quăng cái bát và nói: "Nếu đứa bé uống bằng
đôi tay, thế thì tôi còn thua kém đứa bé này."
Khi Alexander
sắp sửa đi Ấn độ để thống trị và làm vua cả thế giới, có người cho biết, trên
đường đến Ấn độ ông sẽ gặp vị thánh hoàn toàn trái ngược: "Ngài sắp sửa thống
trị nước Ấn độ và làm đại đế cả thế giới, còn Diogenes ngay cái bát gỗ cũng vứt
đi. Ông nói, mình cảm thấy rất hạnh phúc khi không còn sở hữu và tại sao phải
vác lên người cho nặng. Còn Ngài cho rằng: Nếu ta không là vua của thế giới thì
ta không hạnh phúc. Vậy hai cực hoàn toàn đối lập, và có thể rất tốt nếu ngài gặp
Diogenes."
Alexander rất
hứng thú. Vì sự đối lập lúc nào cũng quyến rũ; giống như sự hấp dẫn của tính dục.
Như sự thu hút giữa nam và nữ. Hai đối cực phải hút nhau như âm và dương. Nhưng
Alexander không thể đến với Diogenes; vì đó là điều không đúng với cương vị một
đại đế.
Ngược lại, Diogenes
cũng không đến với Alexander vì ông chẳng có gì để giải quyết và không hề mong
muốn. Khi Diogenes được báo tin đại đế Alexander sẽ đi ngang qua đây và rất tốt
nếu ông gặp người ấy. Ông nói: "Đế vương vĩ đại Alexander. Ai nói với các
ông như thế, tôi nghĩ hắn chỉ là con người đầy tự ngã. Vậy hãy nói với đế vương
Alexander vĩ đại của các ông: Không có gì đến với tôi cả, cũng không cần thiết
gặp tôi vì tôi chỉ là con người tầm thường và nhỏ bé."
Ông nói tiếp:
"Tôi chỉ là một con chó, không phải con người. Thực sự là một con chó. Vì
thế, không có gì cần thiết và nó sẽ làm nhơ nhuốc và bôi bẩn giá trị cao quý của
đế vương khi ông gặp con chó này."
Alexander
đành phải đến gặp Diogenes. Diogenes nói: "Tôi nghe ông sắp thống trị thiên
hạ. Tôi nhắm mắt lại và nghĩ: Đồng ý, sẽ làm chủ cả thế gian, nhưng rồi sao nữa?
Đó là vấn đề thường xuyên tôi nghĩ: Sau đó sẽ thế nào?" Alexander nghe nói,
trở nên buồn rầu và bác bỏ vấn đề: "Không bàn vấn đề này nữa, ông làm tôi
cảm thấy buồn."
Diogenes:
"Sẽ rất buồn sau khi ông làm vua cả thế giới; và tôi có thể làm gì được
cho ông. Tôi mô phỏng vấn đề và đi đến kết luận, điều đó hoàn toàn vô nghĩa.
Ông đang nỗ lực đi đến tự sát. Chính ông muốn làm chủ cả thế giới, thế thì sao
nữa? Nếu ông thành công, cái gì sẽ nối tiếp?"
Trở về Alexander
chán nản, bực bội và rất buồn. Ông nói: "Người này rất nguy hiểm, ông làm
rung chuyển và tan vỡ mộng đế vương của ta." Ông không thể quên Diogenes
và cũng không bao giờ tha thứ cho Diogenes. Đến ngày Alexander gần chết, ông nhớ
lại và nói: "Có thể người Diogenes đúng và hoàn toàn chính xác khi ông ta nói:
Rồi tiếp theo thì sao nữa?"
Điều tiếp
theo là: Đang làm bất cứ việc gì, bất cứ cái gì được xem là thành tựu; sau đó,
bạn nên tự hỏi: "Nếu thành công, thế thì sau đó ra sao nữa?" Nó có
giá trị thực sự hay chỉ là những ý nghĩa thoáng qua đầy hư cấu bởi tính nhị
nguyên hình thành ảo giác?
Nó cho chúng
ta cảm giác mình đang làm những điều có giá trị và đầy ý nghĩa. Hầu như bạn chỉ
hao tốn rất nhiều năng lượng và lãng phí cuộc đời trong những việc như thế. Thực
sự, nó không có một giá trị nào cả.
Cuộc sống chỉ
có ý nghĩa và có thể có hạnh phúc khi không có gì cả, không có gì để phụ thuộc.
Nếu bạn bình an và hạnh phúc trong đơn độc, không cần sự hỗ tương hay có cái gì
cần thiết để được bình an, chỉ như thế mới có thể có niềm nội hỷ. Còn không, bạn
vẫn thống khổ triền miên trong đau đớn và phiền muộn.
Sự lệ thuộc
chính là đau khổ và phiền não. Như những ai lệ thuộc vào tài sản, vào sự sở hữu,
tích trữ tri thức hay bất cứ điều gì, chỉ làm phiền não ngày càng tăng trưởng.
Vậy việc tiếp
theo là nên tự nhắc nhở và hỏi: "Bạn thực sự có ý nghĩa cho dù có nó hay
là không, hay vẫn cố tình làm bộ, hay tự lừa dối cho rằng: Điều này hay điều nọ
rất cần thiết trong cuộc sống của bạn?"
Có người đến
gặp tôi và nói: "Thằng con trai tôi được vào đại học, đó là tất cả những
gì tôi mong ước." Ông chỉ là thư ký nghèo, và đó là giấc mộng lớn nếu con
ông được tốt nghiệp đại học. Con ông giờ là một sĩ quan. Nó đến và kể: "Tôi
chỉ có 600 rupee mỗi tháng và hai thằng con. Nếu một trong hai đứa được đi du học
là tôi quá thỏa mãn."
Người cha
không còn sống. Người con trai đã trưởng thành và có công việc tốt. Nó cũng có
những giấc mộng như người cha; để rồi cũng phải chết. Sự việc mãi tiếp nối như
những móc xích từ đời này sang đời khác.
Ý nghĩa cuộc
sống với những mục đích như thế để làm gì? Bạn đang làm gì? Chỉ lãng phí thời
gian và hủy diệt cuộc đời. Có bao giờ có được ý nghĩa chân chính và xác thực
khi bạn nói: "Những điều này mới làm tôi hạnh phúc và vui vẻ." Đây là
những gì cần suy gẫm một cách sâu sắc để chuyển hướng bạn trở về.
Thứ ba: Con người thường
quên.
Hôm qua, bạn
giận và giờ đây lại hối hận. Nhưng chắc bạn đã quên, nếu sự việc xảy ra lần nữa;
chắc chắn bạn cũng lặp lại đúng như thế. Rất khó để tìm thấy người biết học hỏi
qua trải nghiệm cuộc sống. Rất hiếm và hoàn toàn hy hữu.
Thực sự,
không ai chịu học hỏi với cuộc đời. Nếu biết học hỏi, chắc chắn bạn không thể
phạm lại lầm lẫn. Nhưng các bạn vẫn tiếp tục tham gia cùng lối sống. Vậy điều
thứ ba là bạn cần chuyển hướng vào trong, có nghĩa là cần học hỏi.
Bất cứ điều
gì bạn làm, học hỏi xuyên qua nó. Nhận lấy cốt tủy vấn đề. Hãy nhìn lại khoảng
đời bạn đã đi, cách thức phung phí năng lượng và thời gian. Bạn mãi lặp lại
cùng một lỗi lầm ngu xuẩn nhiều lần trong cuộc sống.
Nếu bạn chuyển
động trong một guồng máy hay đang chuyển vận bánh xe; nhưng nói đúng hơn là:
"Vòng đu quay của bánh xe vận hành bạn"; tất cả được thể hiện trong
tính cách máy móc, và bạn lúc nào cũng quay cuồng như thế, không thể chủ động
và không thể rời khỏi trò chơi đang vận hành. Ở Ấn độ gọi là Sansara. Có nghĩa
vòng đu quay của bánh xe liên tục chuyển động và bạn rơi vào quỹ đạo của nó và
bị lôi cuốn theo sự chuyển động luân hồi liên tục trong vòng quay của bánh xe.
Vì thế có ba
vấn đền cần suy gẫm:
Cái chết: Thường xuyên suy gẫm về
cái chết.
Ý nghĩa: Tìm ý nghĩa chân chính
trong cuộc sống.
Học hỏi: Học không ngừng nghỉ trong
cuộc sống, vì không gì đáng để học; ngoại trừ cuộc đời. Và văn tự không giúp
ích gì cho bạn.
Nếu cuộc đời
không ban thưởng cho bạn điều gì mới lạ, có nghĩa là bạn chưa biết học hỏi. Cần
học ngay chính cuộc đời mình, và kết luận cũng nằm ngay trong cuộc đời. Nhưng bạn
đã làm gì cho chính mình trong suốt thời gian qua?
Cần nhận biết
mình đang nằm trong quỹ đạo của vòng đu quay. Bạn nên tìm cách rời khỏi quỹ đạo
ngay lập tức. Nhưng phải rõ biết bạn đang trong hấp lực của vòng đu quay. Nên
rõ biết và học hỏi bằng chính cả cuộc đời. Ba điều trên sẽ giúp bạn chuyển hướng
để quay trở về nội tại.
Bây giờ chúng
ta đi vào kỹ thuật:
Nhìn vào bầu trời bao la.
Giờ đây, có lẽ
bạn hiểu tại sao tôi phải đề cập lòng vòng bằng nhiều vấn đề. Thực ra, kỹ thuật
lại rất dễ dàng và đơn giản. Bạn có thể thực tập và không có gì không là kết quả.
Có thể bạn hỏi: "Dạng kỹ thuật gì mà có thể ứng dụng dễ dàng?"
Thử nhìn sâu vào bầu trời xanh thẳm,
vượt khỏi những đám mây, nhưng không gì xảy ra.
Nên nhớ: "Shiva
không nói về lý luận. Ông không nói bất cứ điều gì về những gì xuất hiện trong
tâm ông. Cũng có nghĩa là kỹ thuật này chỉ cần đơn giản nhìn sâu thẳm vào bầu
trời vượt khỏi những đám mây, và với sự xuyên suốt và trong sáng của bầu trời
xanh thẳm, người ta quay trở về sự trong suốt."
Cũng cần nhắc
lại ba điều: Cái chết, Ý nghĩa, Học hỏi; vẫn là nền tảng cho kỹ thuật giúp bạn
nhanh chóng chuyển hướng quay về nội tại. Chỉ nhìn, đừng suy nghĩ gì cả. Chỉ nhìn
bầu trời bao la bát ngát vô giới hạn chẳng điểm tận cùng. Mang cái nhìn đó,
nhìn sâu tận bên trong, không vật thể hay đối tượng.
Bầu trời
không phải đối tượng. Bầu trời tuy hiện hữu nhưng không phải là vật thể, bởi vì
vật thể thì có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Vì thế, bạn có thể đi chung
quanh vật thể nhưng không thể đi chung quanh bầu trời. Bạn có thể nhìn sâu thẳm
vào sự bao la chứ không thể sờ mó. Nhìn với cái nhìn sâu lắng và sâu lắng hơn.
Tiếp tục lắng sâu hơn nữa với cái nhìn không có điểm kết thúc. Vì nó không bao
giờ có chu vi hay vòng đai giới hạn.
Đừng suy nghĩ
về nó, cũng đừng nói: "Sao mà đẹp như thế này!" Đừng cám ơn màu sắc.
Đừng, tôi khuyên các bạn đừng có bất cứ một tư tưởng nào xen vào. Khi bạn bắt đầu
suy nghĩ, dừng lại ngay. Đừng sáng tạo dù chỉ một lời. Nó sẽ trở thành sự chướng
ngại; ngay cả định danh: "Bầu trời xanh".
Xin đừng lên
tiếng. Chỉ nên là cái nhìn thuần khiết, trong sáng, ngây thơ. Cứ mù quáng nhìn
vào sự sâu thẳm của bầu trời không điểm tận cùng. Bạn tiếp tục nhìn sâu hơn, lắng
sâu hơn nữa. Cứ thế... bất ngờ, bạn ý thức chính mình.
Vì sao? Vì
khoảng không không hiệu hữu như một vật thể trong giác quan. Thế là giác quan
trở nên vô dụng. Giác quan chỉ hữu dụng khi có vật thể. Nếu bạn nhìn hoa, rồi
nhìn sang vật khác, đóa hoa vẫn có đó. Riêng bầu trời thì không.
Nhưng bầu trời
là gì? Là không gian, là sự dung chứa mọi vật thể. Nó chính là khoảng trống
không cho mọi vật thể có thể hiện hữu. Có thể nói bầu trời là: "Tính không thuần khiết, không chứa mà
không tích lũy." Thế nên, nhìn là nhìn vào tự tánh trong sáng của chính
chúng ta, "Chứa mà không tích lũy."
Vì thế, Mật
điển nói :
Vượt qua những áng mây.
Mây không phải
là không gian mà chỉ là vật thể vô định nổi trôi bồng bềnh trong bầu trời. Nhìn
tận sâu trong bầu trời, không phải nhìn những ngôi sao, hay mặt trời, mặt trăng.
Nhìn là nhìn vào: "Tính không
trong suốt đầy bao dung, chứa mà không bao giờ tích lũy."
Nhưng sự việc
gì sẽ xảy ra? Trong cái không tự tánh,
không có vật thể để nắm bắt cho dù bằng ý thức hay cảm giác. Giác quan trở
thành vô nghĩa. Nếu nhìn sâu tận bên trong không còn phô diễn. Bất ngờ, bạn cảm
thấy mọi vật thể đều tan biến. Tất cả không còn hiện hữu vì tự tánh của nó vốn
không thực thể miên viễn.
Trong sự tan
biến ấy, bạn ý thức toàn diện trong sự rõ biết về chính mình. Nhìn thẳng vào
tính không, bạn chính là tính không. Vì đôi mắt là chiếc gương phản chiếu. Lúc
nào nó cũng phản chiếu.
Tôi nhìn khi
bạn buồn. Bất ngờ nỗi buồn đi vào trong tôi. Nếu có người nào đó mang nỗi buồn
bước vào trong phòng, bạn trở nên buồn. Bạn nhìn thấy nỗi buồn, và vì bạn là tấm
gương, nên nỗi buồn phản chiếu trong bạn.
Nếu có ai cười
lớn, bất ngờ bạn cảm nhận cái cười xuất hiện trong bạn. Bạn như tấm gương phản
chiếu mọi vật thể xuất hiện phía trước. Bạn nhìn một vật đẹp, nó phản chiếu lại
bạn. Cũng vậy, bất cứ việc gì bạn nhìn thật sâu lắng và xuyên suốt, nó sẽ thành
một phần rõ biết của chính bạn.
Nếu nhìn vào tính không không có gì để phản chiếu, bạn
trở thành yên lặng và trong suốt. Bạn tìm thấy sự trong sáng của chính mình. Nếu
bạn thực sự nhận thức về tính không, từ bầu trời, màu xanh... Tất cả mọi vật thể
đều tan biến không còn gì cả. Trong tính không thì làm sao bạn có thể lo lắng, phiền
muộn... Làm sao bạn có thể căng thẳng?
Trong tính
không, làm sao tri thức có thể vận hành? Tri thức hoàn toàn dừng lại và tan biến.
Tri thức là sự rối loạn, lo lắng đầy những tư tưởng hợp lý, vô lý. Vì thế, với
sự vắng mặt của tâm thức, sự trong sáng sẽ lộ diện.
Nếu "Tính
không" phản chiếu trong tự tánh, sẽ không còn khát vọng hay mơ ước vì ham
muốn đồng nghĩa với căng thẳng. Khi mong muốn, bạn sẽ rơi vào sự rối loạn. Khi
nhìn người phụ nữ đẹp, bất ngờ dục vọng hay ham muốn dấy lên, tâm tư hữu xuất
hiện.
Khi sự muốn (dục)
dấy lên, tri thức rối loạn với những vấn đề: "Làm sao để đạt được? Mình sẽ
làm gì để sở hữu...?" Tâm trạng rơi vào ưu phiền trong cảm giác vô vọng
hay hy vọng. Nhưng tất cả chỉ là những giấc mộng thường nhật.
Khi ham muốn
có mặt, bạn rơi vào khủng hoảng. Tri thức va chạm, rạn nứt thành nhiều mảnh vụn
như: kế hoạch, dự định, ước mơ... Khi sự phóng chiếu khởi đầu; bạn trở nên điên
loạn. Vì dục vọng chính là mầm mống của điên loạn.
Tính không
không phải là vật thể. Khi nhìn tính không, ham muốn không còn dấy lên. Không
thể. Vì bạn không thể sở hữu tính không, cũng không thể chiếm hữu tính không, và
không thể xây dựng lâu đài từ tính không.
Bạn không làm
gì được trong vô tự tánh. Tất cả chuyển động của tri thức dừng lại. Mơ ước đã
chấm dứt vì sự trong sáng bắt đầu biểu lộ. Bạn trở nên yên lặng, sáng ngời. Thế
là sự an bình hiện diện trong không gian chính bạn. Có nghĩa là bạn chính là bầu
trời đã từng an lạc.
Bất cứ điều
gì bạn suy gẫm, bạn sẽ là nó. Tri thức có thể đồng hóa với bất cứ hình tướng
nào khi tư tưởng hình thành. Bất cứ điều gì bạn mơ ước, tri thức sẽ tự hình
thành. Đó là lý do người giàu có đầy vàng, bạc, châu báu. Tri thức của họ sẽ đồng
hóa tất cả âm thanh đều là âm thanh va chạm của tiền và vàng bạc. Có nghĩa bất
cứ điều gì mơ ước, tri thức sẽ đồng hóa như thế (Thế giới duy tâm tạo).
Bầu trời là
vô hình tướng, là khoảng không bao la. Nó rất gần gũi và chẳng tốn kém. Bạn chẳng
cần đến Himalayas hay Tibet để tìm kiếm. Kỹ thuật sẽ hủy diệt tất cả hiện tượng,
nhưng bầu trời vẫn có đó; và bạn có thể sử dụng một cách tự do.
Hãy sử dụng
cái nhìn hiện tượng và nền tảng kỹ thuật tự hủy diệt. Tất cả tự hủy diệt trong
cái nhìn tổng thể sâu thẳm không đối tượng. Nhìn thẩm thấu, thấm nhuần và sâu lắng
vào bầu trời. Nhìn với cái nhìn không hình thành tư tưởng. Không có bất kỳ câu
hỏi nào dấy lên. Hãy nhớ kỹ điều này.
Chắc chắn bạn
sẽ cảm nhận bầu trời hằng hữu trong bạn. Cùng chiều hướng, cùng khoảng không, cùng
sự thẩm xanh và tánh không. Đó là ly do Shiva nói: "Chỉ cần đơn giản nhìn
bầu trời xanh vượt khỏi những áng mây, đó là sự trong sáng."
Kỹ thuật bí mật
Đây là phương
cách bí mật: Lắng nghe giáo lý bí mật tối hậu truyền đạt.
Mật điển cổ:
"Vị thầy
ban cho bạn giáo lý bí mật, bản văn bí mật, thần chú bí mật."
Khi học trò
đã sẵn sàng; tức thì thần chú rất bí mật sẽ được truyền trao, thông nhau với vị
thầy trong tính cách riêng tư. Chỉ âm thanh thì thầm qua lổ tai. Kỹ thuật này
quan tâm về tiếng nói thì thầm. Hãy lắng nghe trong cái không tư tưởng khi giáo
lý bí truyền truyền trao.
Vị thầy chỉ
quyết định khi học trò đã sẵn sàng. Thế là trải nghiệm bí mật có thể truyền đạt.
Vào đúng thời điểm, vị thầy sẽ thì thầm bên tai học trò điều gì đó không thể
nói thành lời vì nó vượt khỏi ngôn ngữ. Thế nên, cần ứng dụng ngay lập tức kỹ
thuật này.
Mắt bất động không chớp.
Ngay lập tức bạn hoàn toàn tự do.
Khi vị thầy truyền đạt sự bí mật
qua tiếng thì thầm bên tai.
Hãy để mắt hoàn toàn bất động không
chuyển di.
Có nghĩa là tâm thức hoàn tàn yên lặng
vắng bặt tư tưởng.
Không nháy mắt,
ngay cả một chuyển động nhẹ. Vì cái chớp mắt là để biểu lộ nhiễu loạn ở bên
trong và ngược lại. Lỗ tai trống không; không chạy theo bất cứ âm thanh nào cho
dù bên ngoài hay từ bên trong. Chính ngay lúc ấy, tâm thức đang mở rộng và chờ
đợi để tiếp thu trong trạng thái hoàn toàn thẩm thấu. Có nghĩa là ngay từ giờ
phút này, không có gì có thể hoạt động cho dù riêng tư.
Điều này chỉ
xảy ra trong giây phút bạn hoàn toàn trống không, không còn gợn một chút suy
nghĩ. Và chỉ cần chờ đợi... Nhưng không phải chờ đợi người nào đó; hay chờ đợi
điều gì sẽ xảy ra. Nó sẽ trở về sự phô diễn. Đơn giản chờ đợi, thế thôi. Trong
giây phút bất động; động lực kỳ diệu sẽ xảy ra. Khi tất cả mọi việc dừng lại, thời
gian gần như không còn tồn tại và tri thức vắng bặt. Có thể nói gần như tri thức
không còn nữa. Và chỉ khi nào tri thức không còn tồn đọng. Vị thầy mới có thể
truyền trao.
Vị thầy không
cho bạn những giáo lý dài dòng, ông có thể chỉ phát ra một, hai hoặc ba âm ngữ.
Trong sự yên lặng toàn diện, vài ba âm ngữ đó sẽ thẩm thấu tận cốt lõi của bạn.
Thẩm thấu đến trung tâm và trở thành hạt giống ẩn tàng. Trong ý thức bất động, trong
sự yên lặng, ngay lập tức chúng ta hoàn toàn tự do.
Con người chỉ
có thể tự do khi đã giải phóng tri thức; không có bất cứ một thứ tự do nào khác
hơn. Tự do giải thoát khỏi tri thức là sự tự do độc nhất. Tri thức là sự vây
hãm, là nô lệ, là tù đày.
Vì thế, học
viên phải biết chờ đợi vị thầy. Chỉ khi nào đúng thời điểm vị thầy mới có thể
truyền đạt. Học trò không cần thiết phải mong cầu, vì chính sự mong cầu lại là
sự khát vọng thành tựu.
Học viên
không cần mong muốn vì chính sự mong muốn là điều kiện và môi trường cho tri thức
hoạt động. Chỉ cần chờ đợi và sẵn sàng. Khi sự chờ đợi đã trọn vẹn; vị thầy mới
có thể làm điều gì đó cho bạn.
Cũng có thể vị
thầy làm điều đó gần như quái dị. Chẳng có gì để ngạc nhiên; hay bạn cứ ngạc
nhiên nhưng đừng thắc mắc; vì ngay cả Shiva lúc nào cũng nói về 112 kỹ thuật
nhưng vẫn không có gì xảy ra. Chẳng qua vì thiếu nền tảng chuẩn bị nên thực
hành kỹ thuật mà không có sự truyền trao, cũng như gieo giống trên sỏi đá.
Sai lầm không
phải do hạt giống mà do gieo giống trái mùa. Phải đúng mùa. Hạt giống cần gieo
ngay giây phút cần thiết và chính xác trên mặt đất được dọn sạch. Phân bón đúng
liều lượng và chờ đợi trong những điền kiện ắt có và đủ. Tất nhiên, hạt giống
phải nẩy mầm và chuyển hóa trong cơn mưa đầu mùa.
"Linchi
chợt tỉnh thức khi ngồi bên liêu của thầy. Vị thầy bước ra nhìn Linchi và mĩm
cười. Trong ánh mắt ông cái cười có cái gì đó như là sự chế diễu và hài hước.
Thế là Lin chi bắt đầu bật cười, quỳ xuống và bỏ đi..."
Linchi đã ngồi
chờ đợi ở mái hiên suốt 6 năm. Mái hiên trở thành nơi trú ngụ của ông suốt 6 năm.
Vị thầy vẫn ở đó mà chẳng để ý đến. Linchi chỉ chờ đợi. Sau hai năm, lần đầu tiên
nhìn thoáng Linchi. Hơn hai năm nữa, lần đầu ông vỗ vai. Linchi vẫn chờ đợi, chờ
đợi...
Sáu năm sau, bất
ngờ một ngày vị thầy xuất hiện bắt đầu nhìn vào mắt Linchi và Linchi đã ứng dụng
kỹ thuật lắng nghe khi trao truyền giáo lý tối hậu. Mắt bất động, không nháy mắt,
ngay lập tức hoàn toàn tự do.
Vị thầy nhìn
cười trong trạng thái trung tính. Ông là vị thầy vĩ đại. Ngôn ngữ không cần thiết
và chỉ còn cái cười. Thế là điều gì đó xảy ra từ bên trong Linchi. Ông cũng cười
cúi đầu lạy bỏ đi và nói với mọi người: "Bây giờ ông không còn hiện hữu.
Ngay bây giờ, ông hoàn toàn tự do." Ý nghĩa của tự do là gì? Bạn chưa thể
tự do. Vì thế, ngay bây giờ. Bạn phải giải phóng tự ngã của chính mình.
Linchi thường
kể sự việc đã xảy ra như thế nào. Sáu năm chờ đợi. Sự chờ đợi lâu dài, kiên trì
và thật sự bền bỉ trong niềm xác tín. Ông chờ dưới hiên hè, và vị thầy vẫn xuất
hiện mỗi ngày nhưng không hề quan tâm đến ông.
Và khi đúng
thời điểm, ông đã sẵn sàng, vị thầy sẽ xuất hiện để làm một điều gì đó. Trong
khi chờ đợi, Linchi rơi vào định. Còn bạn sẽ làm gì trong trường hợp này. Có thể
bạn vẫn có những tư tưởng về những ký ức. Tư tưởng lại là thực phẩm dùng để
nuôi dưỡng thức phô diễn. Thế nên, phải dừng tất cả lại. Từ từ tâm thức sẽ yên
lặng vì không còn cần thiết.
Cũng có thể, lúc
ban đầu Lin Chi còn nghĩ về quá khứ. Nhưng không còn tác nhân nên tư tưởng dừng
lại. Vì thế, Linchi không còn đọc sách, không nói năng, không chuyển di khi
không cần thiết và không gặp gỡ một ai. Ông chỉ làm những việc cần thiết cho
nhu cầu của thân vật lý. Và không làm gì cả ngoài việc ngồi chờ đợi bên hiên hè.
Chỉ đơn giản thế thôi.
Yên lặng và
chờ đợi qua nhiều năm tháng. Xuân đến rồi đi và cứ thế vận hành theo trật tự bốn
mùa. Những cơn mưa xuất hiện và chấm dứt. Hành trình cứ thế đều đặn bốn mùa.
Hình như ông
quên mất thời gian. Bất ngờ vị thầy xuất hiện nhìn thẳng vào mắt Linchi. Mắt
ông bỗng nhiên bất động (Nếu chuyển động tức thì sáu năm chờ đợi xem như hoàn
toàn lãng phí).
Không còn chuyển
động đôi mắt và chỉ cần sự chuyển động cho dù nhỏ cũng đã đánh mất cơ hội. Tất
cả trở thành yên lặng, và bất ngờ tiếng cười phát ra như sự điên loạn. Tiếng cười
thẩm thấu tận cốt lõi của tâm thức chợt vang lên hòa vào điệu luân vũ của vũ trụ
thẩm xanh.
Có người hỏi
Linchi: "Việc gì đã xảy ra cho ông?" Linchi nói: "Khi vị thầy cười,
bất ngờ tôi nhận biết toàn cả thế giới chỉ là trò cười lớn. Tiếng cười chính là
thông điệp, và toàn thể thế giới chỉ là những màn kịch, là những trò đùa lớn của
vũ trụ. Tất cả sự nghiêm trọng đều tan vỡ.
Nếu toàn thế
giới là ảo, mộng, là trò đùa; vậy ai bị giam cầm? Và ai là người cần giải thoát?
Không còn sự giới hạn nào cho dù một chút. Tôi nghĩ tôi còn bị quy định giới hạn,
và cố gắng thoát ra... bất ngờ nụ cười của thầy làm tất cả quy ước đều tan biến."
Sự tỉnh thức
thỉnh thoảng xảy ra như thế khi đủ nhân duyên. Vị thầy Zen tỉnh thức khi nghe
đánh tiếng chuông. Âm thanh rung chuyển đã làm rạn nứt từ bên trong. Một ni cô
tỉnh thức trong khi gánh nước. Bất ngờ đòn gánh tre gảy, thùng nước rơi xuống.
Âm thanh thùng bể vang lên. bất ngờ cô tỉnh thức...
(Sự việc gì đã xảy ra? Bạn có thể làm bể rất
nhiều cái chậu hay thùng nước nhưng vẫn không gì xảy ra. Sự việc chỉ có thể xảy
ra khi bạn đã chuẩn bị đầy đủ và chỉ chờ đợi nhân duyên tác động).
Có thể kể rõ
câu chuyện trên như sau: Vị thầy nói: "Tối nay, ta sẽ dạy cho con điều bí
mật. Đi tắm và sau khi tắm xong, nhớ mang hai thùng nước về cho thầy. Thầy cũng
cần tắm và sẽ truyền đạt điều bí mật con đã chờ đợi từ lâu."
Cô cảm thấy
ngây ngất như đang nhập định. Có nghĩa là giây phút chờ đợi đã chín mùi. Cô đi
tắm, đổ nước vào thùng và gánh về. Đó là đêm trăng tròn, khi gánh hai thùng nước
về, bất ngờ đón gánh tre gảy làm nước văng tung toé. Về nhà, vị thầy nhìn cô và
nói: "Bây giờ, không cần thiết nữa, nó đã xảy ra. Thầy không có gì để truyền
đạt và con đã tự nhận biết."
Về sau, vị sư
cô già thường nói: "Với cây tre gãy, có điều gì rạn nứt và phá vỡ trong
tôi. Hai thùng nước rơi xuống, tôi nhìn thấy thân vật lý cũng tan rã. Tôi nhìn
mặt trăng và mọi vật, tất cả đều yên lặng và trong sáng. Tôi trở nên hoàn toàn
yên lặng và trong suốt. Ngay giây phút đó, tôi không còn là tôi của ngày xưa.
Đó là ý nghĩa tự do và giải thoát mọi buộc ràng."
Nhìn sâu xuống
đáy giếng. Nhìn vào vực sâu của giếng. Giếng sẽ phản chiếu lại. Dừng hoàn toàn
tư tưởng lại. Tiếp tục nhìn vào chiều sâu thẳm của đáy giếng. Bây giờ, tri thức
cũng có vực thẳm và chiều sâu của riêng nó như giếng.
Nhìn sâu vào
cái giếng với trạng thái không tư tưởng, chiều sâu sẽ phản chiếu lại bạn. Giếng
là biểu tượng của sự sâu thẳm từ bên trong. Tiếp tục nhìn cho đến khi những điều
kỳ diệu xảy ra.
Đừng dừng lại
bất kỳ vì nguyên nhân nào. Tiếp tục nhìn, sâu lắng và càng sâu lắng hơn thế nữa.
Nhìn cái giếng và không có tư tưởng chuyển động trong tri thức. Thiền định với
chiều sâu của nó, sự huyền diệu sẽ xảy ra. Bất ngờ cảm nhận, bạn cũng có cái giếng
trong chính bạn. Cũng có chiều sâu. Thế là kỳ diệu xảy đến với bạn. Bạn cảm thấy
sự tuyệt vời tràn đầy khắp không gian.
Chuangtzu đi
qua cây cầu với vị thầy, Laotzu. Ông nói với Chuangtzu: "Ở đây, nhìn xuống
từ cây cầu đến dòng sông, cho đến khi dòng sông dừng chảy và chiếc cầu trôi.
Sau đó đến gặp tôi."
Chuangtzu được
dạy kỹ thuật thiền định, chờ đợi trên cây cầu. Và ông làm cái chòi trên trên cầu
và ở lại nơi đó. Qua nhiều tháng ngồi trên cầu, chờ đợi nhìn cho đến đúng giây
phút dòng sông dừng lại và chiếc cầu trôi.
Thực sự trong
tâm thức ông, nước dừng lại và chiếc cầu bắt đầu trôi. Làm sao có thể sự việc
như thế xảy ra. Nếu tư tưởng hoàn toàn dừng lại, bất cứ điều gì cũng có thể xảy
ra. Tri thức đã quy ước: "Nước thì chảy và chiếc cầu đứng yên", nhưng
khi tâm thức đã dừng lại, tất cả đều có thể xảy ra vì vượt khỏi quy ước.
Tiếp tục thiền
định, thiền định và thiền định. Changtzu đi đến phát hiện mọi vật thể đều tương
quan. Dòng sông chảy bởi vì chúng ta sống trong quy ước chiếc cầu đứng yên.
Nhưng cầu cũng có thể trôi. Vì tận trong sâu lắng của tâm thức không có gì đứng
lại trong thế giới không còn quy ước.
Từng hạt
nguyên tử chuyển động, từng hạt điện tử cũng chuyển động. Cây cầu vẫn hằng chuyển
động tự bên trong. Mọi vật thể đều trôi chảy và cây cầu cũng thế. Có nghĩa là Changtzu
có cái thoáng nhìn của cấu trúc nguyên tử hình thành vật chất.
Giống như ta
thấy bức tường bất động. Nó trông như dừng lại nhưng thực sự nó không bất động.
Sự chuyển động lúc nào cũng có. Từng hạt điện tử đang chuyển động. Nhưng sự
chuyển động quá nhanh, nên chúng ta không thể thấy. Vì thế, tri thức quy ước nó
bất động.
Chiếc quạt điện
chuyển động thật nhanh, cực kỳ nhanh. Bạn không thể phân định cánh quạt hay
không gian. Nếu tốc độ càng nhanh; bạn chợt nhận thấy cánh quạt dường như dừng
lại và quay ngược trở lại. Không gì không chuyển động từ bên trong. Chẳng qua
đôi mắt không nhận bắt sự chuyển động tối ưu của tiền vật chất.
Chuangtzu có
cái thoáng nhìn cấu trúc nguyên tử của cây cầu. Ông đã chờ đợi; chờ đợi tri thức
quy ước tan biến. Thế là ông thấy cầu trôi và dòng sông bất động. Ông chạy đến;
và Laotzu nói: "Tốt. Bây giờ không còn gì để hỏi tôi. Mọi sự việc xảy ra từ
chính ông."
Cái gì xảy ra?
Khi không còn tri thức nó, sẽ xảy ra. Khi bạn cảm nhận sự huyền diệu. Khi sự
huyền diệu ngập tràn, khi thức không còn nữa. Đơn giản, sự bí ẩn, hàng triệu sự
bí ẩn như thế sẽ xuất hiện. Và bạn có khả năng nhận biết chính mình.
Rút lui toàn diện: Nhìn vật thể
hay nhìn đoá hoa. Nên nhớ với cái nhìn không suy nghĩ. Nếu còn suy nghĩ; đó
không phải là cái nhìn chân chính. Vì bạn đã làm sự vật ô nhiễm. Cái nhìn phải
thuần khiết, trong sáng. Có nghĩa là bạn chỉ đơn giản nhìn không phê phán vì
tri thức không còn xen vào xử lý.
Hãy nhìn đóa hoa.
Sau đó nhẹ nhàng rút cái thấy ra khỏi
đóa hoa.
Trong cái
nhìn đầu tiên, hoa hoàn toàn hiện hữu. Dừng tư tưởng, dừng cả sự suy nghĩ và tiếp
tục nhìn. Khi đã cảm nhận không còn tư tưởng. Hoa sẽ hiện hữu trong tâm thức bạn.
Rất nhẹ nhàng
và từ từ chuyển đôi mắt nhìn xa hơn xuyên qua vật thể. Từ từ đóa hoa mờ nhạt dần
dần. Vật thể đã vượt khỏi sự chú tâm. Nhưng sự mô phỏng về vật thể vẫn trong bạn.
Vật thể không
còn được chú ý; nó không còn là trọng tâm vì bạn đã chuyển hướng cái nhìn. Sự
mô phỏng vật thể bên ngoài không còn nữa, nó phản chiếu lại. Phản chiếu trong tấm
gương sáng trong của bạn. Nó vẫn hiện diện tại đó. Sau đó, bạn rút sự thấy khỏi
đoá hoa, rồi từ từ rút tư tưởng khỏi đoá hoa.
Đầu tiên, rút
ra khỏi vật thể, chỉ còn sự mô phỏng trong tư tưởng về đoá hoa. Bây giờ, rút nó
thoát khỏi tư tưởng. Đây là điều rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu phần đầu bạn thực
hành chính xác sẽ không còn gì phức tạp.
Đầu tiên vật
thể tan biến, rồi sự mô phỏng tan biến. Shiva nói: "Sau đó..." Sau đó,
bạn cảm nhận sự đơn độc. Trong sự đơn độc, sẽ phát hiện chính mình. Chúng ta
quay trở lại trung tâm và bị quăng trở về nguồn.
Đây là kỹ thuật
thiền định rất tốt. Bạn có thể tu tập. Có thể bạn đi đến một ngôi đền hay chùa
nào đó nhìn tượng Mahariva, Buddha, Rama, Krishna... Nhìn bức tượng và chú tâm
vào đó. Đầu tiên chỉ là quan tâm đến bức tượng. Sau đó, trở thành sự mô phỏng
trong tâm thức.
Sau đó nhắm mắt
lại. Rút thị giác khỏi bức tượng và xóa bỏ tất cả. Tiếp theo rút khỏi sự mô phỏng.
Xóa tất cả không còn tồn đọng cho dù một vết tích. Thế thì bạn hoàn toàn trong
cô độc. Trong sự ngây thơ thuần khiết, đó chính là tự do, sự thấu suốt chân
chính. Thế là chân lý tự sáng tỏ.
Tôi nghĩ bạn
hoàn toàn thấy đủ trong ngay hôm nay.