Osho - Thế giới những Mật Điển
Chương 14: Chuyển hướng năng lượng: Kỹ thuật cho sự thông tuệ, cảm thọ
Mật Điển:
Đề nghị từ từ bạn nên đánh mất tri thức.
Ngay lúc đánh mất chính là sự vượt
lên.
Dâng hiến tự do; Trọn vẹn không ràng
buộc.
Đối với Mật điển
con người sẵn có bệnh di căn. Căn bệnh không phải do thức phô diễn nhiễu loạn, cũng
không phải do căng thẳng. Nói một cách chính xác, bạn chính là sự căng thẳng.
Hiểu rõ giữa
hai sự kiện này. Nếu tâm thức bị bệnh; thì căn bệnh có thể điều trị được. Nếu
tâm thức bệnh hoạn và quá yếu đuối, căn bệnh này không thể chữa trị. Nó có thể
chuyển hóa nhưng không thể trị liệu.
Đây là sự khác
biệt giữa tâm lý phương Tây (hệ thống tâm lý Logic) và Mật điển Á đông. Tâm lý
phương Tây nghĩ rằng tâm thức có thể lành mạnh. Do đó, có thể điều trị và cần sự
trợ giúp bởi vì họ cho rằng không có sự chuyển hóa, giống như không gì có thể
vượt ngoài tâm thức.
Nhưng chuyển
hóa có nghĩa là vượt lên. Bạn có thể sống trong trạng thái hiện thời và vẫn có
thể tiến xa hơn. Nhưng đối với họ, không thể vượt qua quy ước, và tâm trí đã
tuyệt đối, vì thế đối với họ chuyển hóa là điều bất khả.
Nếu cho rằng
thân vật lý này là bạn, chắc chắn không thể chuyển hóa. Bởi vì ai là người làm
bạn chuyển hóa, và sau khi chuyển hóa bạn sẽ đi về đâu. Nếu đơn giản bạn chỉ là
hình thể vật chất, chắc chắn bạn không thể thoát khỏi sự giam hãm của thân vật
lý.
Nếu có thể vượt
ra sự giam hãm của thân.
Có nghĩa là bạn
không còn đồng hóa mình với thân vật lý.
Có điều gì đó
hình như là sự "cộng thêm",
Có nghĩa là tăng
trưởng thêm chiều đi lên.
Đồng nghĩa với
chuyển động hướng vào trình độ cao hơn.
Tương tự, bạn
là tâm trí và không thể khác. Bạn cũng không thể chuyển hóa. Nhưng có thể điều
trị như một căn bệnh. Chúng ta có thể trị liệu tất cả mọi dạng thức thuộc về
tâm thần hay tâm lý. Chúng ta không sờ chạm đến tâm trí, chỉ chữa bệnh cho tâm
thức trở lại bình thường. Nhưng không một ai đặt nghi vấn:
"Tâm thức
bình thường thực sự có lành mạnh hay là không?"
Tâm dung tục
hay tâm bình thường lại là tâm nghi. Chúng ta tin vào tâm thức bệnh hoạn và cho
đó là tính chất bình thường. Nhưng dù cho có lành mạnh hay không, nghi tình này
chẳng bao giờ được nêu ra. Chúng ta mãi khăng khăng bảo vệ, tin chắc vào tâm
dung tục và cho nó là thực. Đó là hành động chấp thành bản ngã.
Vậy bất cứ ai
vượt khỏi tâm dung tục, phải được điều chỉnh và đem trở lại vị trí cũ. Và toàn
bộ hệ thống phương Tây nỗ lực trong chiều hướng về sự hoàn chỉnh. Có nghĩa là dùng
đủ mọi phương thức tâm lý trị liệu để quay trở về tâm dung tục.
Nhà tư tưởng, Geoffrey
nói rằng thiên tài là con bệnh vì vượt qua sự bình thường. Thiên tài là người bất
bình thường. Nếu tính chất bình thường là tốt, lành mạnh có nghĩa là người vượt
qua thiên chức dung tục là con bệnh. Người thiên tư không bình thường được xem
là những kẻ trong trạng thái điên loạn. Nhưng sự điên loạn của họ lại có lợi
ích, vì thế nhân loại chấp thuận họ tồn tại.
Einstein, Van
Gogh, Ezra Pound... những nhà thơ, họa, khoa học hay những người thuộc về huyền
thoại, họ là những con người điên loạn và sự điên loạn của họ được chấp thuận bởi
hai nguyên nhân: Không hại ai và có nhiều lợi ích.
Sự điên loạn của
họ đã đóng góp cho nhân loại những điều tâm bình thường không thể sáng tạo. Vì
với trí huệ, họ đem chuyển động đến cực độ, và nhìn ra được những điều tâm dung
tục không thể nhận được. Vì thế, chúng ta bằng lòng; và tạm gọi họ là những
thiên tài để trao giải Nobel.
Nhưng họ bị cho
là những người bệnh hoạn vì tính chất bình thường được xem là tiêu chuẩn và
lành mạnh. Vậy những người không bình thường, không thuộc về tâm dung tục đều
là những con bệnh.
Geoffrey nói: “Ngày
nào đó, nhân loại sẽ quyết định trị liệu cho những nhà thơ hay khoa học cùng phương
cách dùng cho những người mất trí và điên loạn. Chúng ta muốn đem họ trở về con
người bình thường, bằng cách thể hiện phương thức thôi miên đặc biệt để họ
không thể vượt qua quy ước."
Ngược lại,
phương Tây là sự tiếp cận của phương Đông. Chúng ta chính là căn bệnh cho dù
bình thường hay bất bình thường. Người bình thường mang tâm bệnh bình thường, bạn
có thể phát hiện họ ở mức trung bình.
Vì tất cả mọi
người đều giống như nhau. Có những căn bệnh không thể phát hiện vì người chữa bệnh
cũng bệnh và “thức phô diễn” chính là nguồn gốc bệnh con người. Và tại sao, tại
sao thức phô diễn là căn bệnh di truyền? Nếu biết tiếp cận và mổ xẻ theo những
sự kiện và chiều hướng khác nhau; rất dễ dàng nhận biết.
Theo quan kiến
phương Đông, thân vật lý là ảo vì nó đang chết. Bạn không thể nào sáng tạo một
thân vật lý hoàn hảo, lành mạnh và tồn tại miên viễn. Vì tất cả những vật chất,
hiện tượng có sinh là phải diệt.
Bạn chỉ có thể
hình thành sự quân bình, nhưng trước sau gì nó cũng phải tan rã. Sức khoẻ chỉ
dùng để tương tác vì chúng ta hiện diện trong thế giới hiện tượng. Thân vật lý
chắc chắn không thể hoàn hảo. Đó là lí do tại sao y học không thể có lập trường
vững chắc và không thể định nghĩa sự lành mạnh là gì. Họ chỉ có thể minh chứng
những loại vi khuẩn tấn công và tạo thành những căn bệnh riêng biệt.
Thông thường, họ
giải thích rất thiển cận và cho rằng: “Con người không bệnh là lành mạnh, là tốt
đẹp.” Căn cứ theo tính cách tâm dung tục lành mạnh là hoàn toàn vô lý vì không
bệnh tật là điều tiên quyết cho định nghĩa "lành mạnh".
Nhưng sự lành mạnh
không thể giải thích bằng sự bền vững của thân vì trong mỗi sát na, thân vật lý
chỉ có thể tồn tại trong sự tương quan hài hòa. Và chết là tiến trình của cuộc
sống, có nghĩa là lúc nào bạn cũng đang chết. Bạn không thể sống mãi mà đang chết
và đồng thời sống lại trong từng giây phút.
Sống và chết
không phải là hai điểm khác biệt. Lúc nào cũng như hai chân cùng bước đi không
dừng dứt; và cả hai đều thuộc về bạn. Mỗi sát na sống là mỗi sát na bạn đang chết.
Có điều gì đó đang chết trong từng thời khắc. Cuộc sống cho dù kéo dài đến đâu
bạn cũng phải chết. Bạn đang chết từng sát na; để rồi cuối cùng tan biến vào hư
không.
Khi vừa chào đời,
đồng nghĩa với khởi đầu của cái chết. Ngày sinh cũng là bắt đầu cho ngày tử. Nếu
bạn đang chết trong từng thời khắc thì cái chết không phải là điều gì tự đến mà
nó đang phát triển từ bên trong sự sống. Như thế có nghĩa là thân vật lý thực sự
chưa bao giờ lành mạnh hay bền vững.
Làm sao điều ấy
lại có thể? Khi cái chết xảy ra trong từng sát na thì làm sao thân có thể được
xem là hoàn hảo. Nó chỉ có thể thiết lập những tương quan để lập lại quân bình
trong cuộc sống.
Nếu bạn trong
tình trạng bình thường là thỏa nguyện đồng dạng với tâm thức. Nhưng tâm thức
không thể nào lành mạnh. Vì sự hiện hữu của tâm thức đều bị giới hạn và bao bọc
xung quanh bởi những loại bệnh tật, vi khuẩn, căng thẳng, nhiễu loạn, lo lắng
và khủng hoảng. Đó là sự vận hành tự nhiên của thức phô diễn. Vậy cần phải hiểu
tận tường và rõ rang: Tự nhiên là gì?
Có thể nói thức
phô diễn kết nối giữa thể chất và tâm linh từ bên trong; nối kết tính chất hữu
hình và vô hình trong bạn; là cây cầu nối kết huyền diệu nhất giữa vật thể và sự
linh thiêng và có thể nhận thức sự nghịch chiều hay quay ngược lại chiều hướng
trôi lăn của lục đạo (sáu tâm thức hay sáu thế giới).
Thông thường, bạn
như cây cầu bắt qua con sông và bờ sông bên này là thế giới vật chất (thế giới
hiện tượng). Trường hợp này, thức phô diễn là cây cầu nối tiếp hai bên bờ dòng song,
sự tiếp nối vật chất và thế giới vô hình hay tâm linh, giữa hữu hình và vô hình,
giữa hủy diệt và tồn tại, giữa sinh và tử, giữa thân và tâm; hay bất cứ điều gì
bạn có thể định danh. Thức phô diễn là cầu nối những tương phản, thường xuyên
bao bọc và duy trì trạng thái căng thẳng, không thể nào để bạn trở về sự tỉnh lặng;
mà luôn chuyển từ cực này sang cực khác.
Mỗi giây phút
thức phô diễn sâu lắng đầy căng thẳng. Tôi không nói khủng hoảng hay lo lắng về
vấn đề tài chánh hay những phiền muộn tương tự. Mối lo âu này không phải thế;
mà là nỗi khao khát chân chính muốn tìm về chân lý đức Phật. Bạn thường trong
tình trạng băn khoăn và nặng nề trong cuộc sống thường nhật. Nhưng khi đã khám
phá ra sự khắc khoải này. Bạn sẽ trở về nguồn gốc giải thoát chân chính.
Tôn giáo chân
chính là nền tảng của sự khao khát. Đức Phật trở nên khao khát theo phong cách
khác. Ngài không lo lắng tài chánh, không băn khoăn về vợ đẹp, con ngoan. Có thể
nói: Ngài chẳng hề khao khát bất cứ điều gì về vật chất và thế giới hiện tượng.
Không một mối lo âu nào về đời sống dung tục của thế gian.
Ngài sống an
toàn, được bảo đảm và là con trai quốc vương một vương quốc hùng mạnh. Ngài có
một người vợ tuyệt trần và có thể nói: Tất cả đều sẵn sàng. Tất cả đều có thể
đáp ứng ngay tức khắc. Nhưng bất ngờ, ngài trở nên ưu tư và quyết định lên lưng
ngựa trốn khỏi kinh thành. Chính nỗi băn khoăn thúc đẩy và làm nền tảng cho
lòng khao khát giải thoát.
Lòng khao khát
tối hậu thúc đẩy khi ngài nhìn thấy người chết được khiêng đi. Ngài hỏi người
đánh xe chuyện gì đã xảy ra. Và nhận được câu trả lời:”Người đàn ông này đã chết."
Lần đầu tiên, ngài nghe về cái chết, lần đầu tiên chạm thực tế về cái chết.
Ngài hỏi: “Mọi người đều nằm xuống và tôi cũng phải chết?"
Hãy nhìn vào
câu hỏi. Chính bạn chưa bao giờ nêu lên vấn đề như thế. Bạn có thể hỏi ai chết,
tại sao ông ta chết; hay người ấy trông còn trẻ mà qua đời, quả thực đáng tiếc.
Bạn cảm thấy mình đang chia sẻ một nỗi buồn, bạn chỉ cảm thấy buồn bã đôi chút
rồi quên đi và không bao giờ nghĩ rằng mình cũng phải chết.
Tất cả đều là
phiến diện và bạn đã quên con người mình. Đức Phật hoàn toàn ngược lại. Toàn bộ
câu hỏi tập trung về: “Tôi cũng phải chết?" và người đánh xe trả lời: “Tôi
không thể dấu diếm ngài. Tất cả mọi người đều đi đến cái chết."
Đức Phật nói: “Quay
xe lại. Nếu tôi cũng phải chết, ích lợi của cuộc sống này là gì? Ông gây lên sự
bâng khuâng sâu thẳm bên trong ta. Ngoại trừ vấn đề này phải được giải quyết,
còn không ta không thể bình an."
Đó là nỗi băn
khoăn căn bản. Nếu bạn ý thức từng trường hợp xảy ra trong cuộc sống của thân
và tâm, sự khao khát vi tế sẽ khuấy động. Bạn rạn nứt từ bên trong và nỗi lo âu
tiếp tục làm bạn khắc khoải.
Bất cứ bạn làm
hay không làm điều gì, nỗi lo lắng này vẫn tồn đọng. Một nỗi đau về tinh thần lẫn
vật chất. Và chính thức phô diễn lại là cây cầu nối tiếp với vực thẳm không đáy.
Có thân thì phải chết, nhưng vẫn còn có điều gì đó bên trong bạn hình như là sự
bất tử. Thế là có hai điều tương phản với nhau:
Thứ nhất:
Nếu đứng trên
hai chiếc thuyền với chiều hướng ngược lại. Bạn sẽ đối lập trong xung đột mâu
thuẫn nội tại và thức phô diễn ở giữa sự đối lập.
Thứ hai:
Thức phô diễn là tiến trình chuyển tiếp, không phải là
vấn đề hay sự vật. Định danh "Tâm thức" là khái niệm sai lầm. Khi nói
“Tâm thức" thì nó đã xuất hiện như một vật thể trong hiện tượng. Thực sự
không là gì cả.Thức phô diễn không phải là công cụ hay thân vật lý... Nó chỉ là
tiến trình. Vì thế còn gọi là "ký ức" hay "ý nghĩ". Thế là
chúng ta có từ ngữ trong hệ Sanskrit là Chitta, nghĩa là"Tâm".
Thức phô diễn
không thể yên lặng, nó luôn luôn trong tình trạng căng thẳng vì những nhiễu loạn
của sự dao động. Thức phô diễn luôn chuyển di từ quá khứ sang tương lai và ngược
lại. Đó là sự chuyển động liên tục để hình thành nỗi lo âu vì mong muốn hay sợ
hãi. Và nếu quá chú trọng những lưu trữ về quá khứ, bạn có thể rơi vào sự điên
loạn.
Nếu không còn
nhồi nhét đầy ắp những thứ lăng xăng, vụn vặt, linh tinh đến từ bên ngoài (thế
giới hiện tượng), bạn sẽ rõ biết tiến trình diễn tiến nội tại của tư tưởng, quá
trình xảy ra như thế nào của tư tưởng làm bạn rơi vào sự căng thẳng.
Mọi người cứ lượm
lặt mọi thứ qua nhiều cách chỉ để che lấp và lẫn trốn. Nếu không có việc gì để
làm, người ta phải đọc sách, báo chí hay xem phim. Tại sao? Vì không thể ngồi
trong yên lặng. Quả rất khó khăn, nhưng nếu sống được trong yên lặng, bạn sẽ
hoàn toàn tỉnh táo và nhận rõ toàn bộ tiến trình.
Mọi người lẫn
trốn vào rượu để giúp bạn rơi vào trạng thái tê liệt của thức phô diễn. Tính dục
giúp bạn quên chính mình trong giây phút. TV và âm nhạc cũng thế. Bất cứ điều
gì có thể dùng để khuây khỏa, che lấp cái nhìn vào tư tưởng khủng hoảng. Đó là
trốn tránh của tự ngã; và nó chính là môi trường cho thức phô diễn hoạt động.
Nếu nhàn rỗi
trong sự yên lặng có nghĩa là bạn thiền định và đang ý thức dòng tư tưởng chuyển
động. Tâm thức là tiến trình chuyển động, là căn bản nội tại đang diễn tiến. Rất
nhiều người đến và nói rằng: “Khi bắt đầu thiền định họ trở nên căng thẳng và
lo lắng, và sợ hãi nhiều hơn trước."
Thông thường, chúng
ta không hề băng khoăn hay ưu tư. Nhưng khi ngồi trong sự yên lặng hay bắt đầu
thiền định, dường như tư tưởng tăng đột ngột, ồn ào vô số kể và cảm thấy mình bị
nó tràn ngập. Thế là họ bắt đầu suy nghĩ tại sao hay có lẽ vì thiền định làm
chúng ta bất an. Thực ra, trong thiền định bạn yên lặng toàn diện và nó bắt đầu
lộ mặt.
Tư tưởng là đám
đông tụ họp chung quanh bạn từng sát na. Nếu bạn lượm lặt những phù phiếm để
che lấp, bạn sẽ không rõ biết về nó. Nên khi ngồi xuống, bạn nên ý thức và nhận
biết những gì thường lẫn trốn, không dám đối diện.
Tư tưởng hay ký
ức làm năng lượng bị hao tốn. Năng lượng bị tiêu hao vì thức phô diễn. Nhưng nó
lại rất cần trong cuộc sống vì là một phần của sự sinh tồn. Nhưng cũng là vũ
khí và là một trong những thứ vũ khí đầy bạo động, có thể nói dã man nhất trong
muôn loài.
Con người tồn tại
bằng thực phẩm là thịt thú vật. Động vật hoang dã có sức mạnh thể chất nhưng yếu
kém vũ khí vi tế, thức phô diễn hay tư tưởng. Thú vật có hàm răng và móng vuốt
sắc bén rất nguy hiễm. Thú vật mạnh hơn con người và có thể giết con người một
cách dễ dàng, nhưng lại thiếu tư tưởng. Và tư tưởng chính là vũ khí để con người
sinh tồn.
Thức là phương
tiện xử lý để tồn tại. Thức cần thiết và rất bạo động. Thức hung bạo và mãnh liệt
và là thành phần của tính chất bạo động. Thức phô diễn được gầy dựng và hình
thành qua công cuộc bạo động từ quá khứ thật xa xưa.
Vì thế, khi ngồi
xuống, bạn cảm thấy bất an. Cảm thấy sự nổi loạn từ bên trong. Tư tưởng ào ạt đầy
những ý kiến hung bạo, nhiễu loạn làm muốn phát điên và tưởng chừng mình sẽ nổ
tung. Đó là lí do tại sao không ai thích ngồi yên lặng để ngắm nhìn hay thưởng
thức.
Mọi người đến
và nói:
"Hỗ trợ
chúng tôi bằng sự giúp đỡ từ bên trong. Chúng tôi không thể nào ngồi yên lặng.
Vì dòng tư tưởng cứ như một đám đông. Cho tôi câu thần chú như Rama, Rama, Rama...
chẳng hạn. Cho tôi một phương tiện hay kỹ thuật nào đó để có thể ngồi yên lặng."
Thực sự các bạn
đang làm gì thế? Bạn đang sáng tạo một môi trường mới. Bạn chỉ có thể yên lặng
khi đã cho thức phô diễn một điều gì. Bạn chú tâm vào Rama, Rama, Rama... Như
thế thức phô diễn không thể trống không hay thư giãn. Dòng tư tưởng là tiến
trình đầy bệnh hoạn và không thể hài hòa trong sự quân bình. Vì thế yên lặng là
cần thiết.
Thứ ba:
Thức hình thành
từ nguồn gốc của xã hội. Khi vừa chào đời, bạn chỉ có khả năng tiếp thu nhưng
không có định kiến hay tư tưởng riêng biệt. Đứa trẻ sinh ra và trưởng thành
không lệ thuộc xã hội, đứa bé lớn lên với thân vật lý nhưng không có khả năng
nói bất cứ ngôn ngữ nào. Cũng không có khái niệm hay quan niệm để suy nghĩ và
tư duy giống như động vật hoang dã.
Xã hội huấn luyện
và đào tạo sự hiện thực, xã hội cho bạn tri thức và tư tưởng. Đó là lí do tại
sao Hindu có định kiến riêng của họ và Mohammedan lại có quan niệm khác. Cả hai
đều là con người, nhưng những gì thức phô diễn dung chứa hoàn toàn khác nhau vì
sự khác biệt về đất nước, văn hoá, xã hội, tôn giáo và mục tiêu.
Tất cả mọi người
sinh ra không có tri thức, chỉ có khả năng nẩy mầm. Nó chỉ là một hạt giống. Bạn
được huấn huyện với tư tưởng người nam hoàn toàn khác với người nữ. Tri thức
này được nuôi dưỡng trong bạn, và nó là điều kiện được áp đạt cưỡng bách bạn
suy nghĩ và hành động.
Thức luôn luôn
bám vào định kiến cũ rích về cái gọi là chính thống. Cho nên không thể có tâm
thức tiến bộ. Không thể có tâm thức phát triển, vì thức phô diễn là định kiến bị
giãm trong điều kiện và quy ước.
Hãy nhìn vào chế
độ thực dụng vô thần. Họ nghĩ là rất tiến bộ. Nhưng Max's Das Kapital chỉ có
quyền lực với những người tin theo ông ta, cũng như Koran có uy lực đối với
Mohammedan. Gita có giá trị đối với Hindu.
Nếu bạn chỉ
trích hay phê phán Marx, họ thấy bị tổn thương hay bị xúc phạm. Giống như Jain
cảm thấy bị xúc phạm khi bạn lên án Mahariva. Thức bám rất chặt vào định kiến, vì
nó tuân thủ theo chủ nghĩa xã hội quy ước quá khứ do những người khác đơm đặt.
Tại sao tôi lại
xác định với bạn những sự kiện này? Bởi vì cuộc sống lúc nào cũng thay đổi. Nó
thay đổi liên tục và thức phô diễn lại bám vào quá khứ. Thức phô diễn lúc nào
cũng cổ lỗ và mục nát; trong khi đời sống luôn luôn mới lạ và tươi mát.
Bạn yêu một phụ
nữ, nhưng bạn là người có tâm thức lệ thuộc giáo thuyết của Hindu và người phụ
nữ lại theo Mohammedan. Yêu thương đã trở thành phiền não vì quan niệm về tôn
giáo hoàn toàn đối lập.
Cuộc sống mang
đến bạn người phụ nữ Mohammedan. Một hiện tượng hoàn toàn mới và đầy ngạc nhiên.
Thế là thức phô diễn không biết làm sao để hài hòa trong trường hợp này nên
phát sinh mâu thuẫn.
Đó là lý do khi
thay đổi cuộc sống mới, chúng ta thấy mình bị mất gốc rễ. Đời sống thì đầy những
lo âu và xáo trộn. Thế nên cần thể hiện sự yên lặng, vì cuộc sống lúc nào cũng
yên lặng.
Chỉ vì thức phô
diễn không chấp nhận, không yên lặng và lúc nào cũng rơi vào mâu thuẫn. Tất cả
mọi việc thay đổi quá nhanh và thức phô diễn không thể theo kịp. Nó còn mãi bám
vào sự hiểu biết của quá khứ, trong khi sự việc lại thay đổi từng khoảnh khắc.
Đó là vì có nhiều
sự khủng hoảng xảy ra tại phương Tây. Phương Đông thì ít hơn. Vì nghèo nàn, vì
phải đối diện với thực tế đầy thiếu thốn. Thực phẩm, quần áo không đủ và vô gia
cư. Hầu hết mọi người đều rơi vào sự khó khăn. Trong khó khăn về vật chất lại
ít rơi vào khủng hoảng.
Tại sao thế? Bởi
vì phương Tây phát triển khoa học kỹ thuật cực độ và cuộc sống vật chất được
nâng cao quá nhanh, cho nên thức phô diễn không thể theo kịp sự phát triển của
thế giới văn minh hiện đại. Khi đang cố điều chỉnh cho phù hợp với những gì mới
lạ, sự tiếp cận mới lại trở thành lạc hậu. Có thể nói: “Khi khoa học kỹ thuật vật
chất ngày càng cao, thì tâm thức lại đi thụt lùi."
Lúc nào cũng có
một khoảng cách. Đời sống mang đến nhiều điều mới lạ, mang đến cho chúng ta những
hoàn cảnh mới. Thế là thức phô diễn cố gắng tạo ảnh hưởng bằng cách quay trở lại
những thành kiến xưa cũ. Khoảng cách này tiếp tục lớn dần; và có thể nói: “Khoảng
cách xa thì sự khủng hoảng càng kinh khiếp."
Tâm trí là căn
bệnh di truyền. Vậy chúng ta phải làm gì? Nếu bạn trị liệu thì đó là phương
cách dễ nhất. Có thể chữa trị một thời gian dài nhưng vẫn không hiệu quả. Thực
ra, chữa bệnh thì đơn giản hơn chuyển hóa tâm thức. Vì bạn cần phải buông bỏ sự
buộc ràng của thức phô diễn một cách toàn diện. Muốn chuyển hóa, bạn cần có đôi
cánh dũng mãnh để vượt qua. Tuy nhiên, đừng đụng chạm gì về nó và cứ để nó tự đến
rồi tự đi.
Thí dụ: Ở đây, trong
căn phòng nóng bức, tôi có thể làm hai việc: mở máy lạnh và tiếp tục ở trong
phòng. Có nghĩa là cần sắp xếp làm thế nào cho căn phòng đừng nóng. Sự thuận tiện
nào cũng có cái giá: cần bảo trì và lo lắng về nó; hay chỉ cần rời bỏ căn phòng
để đi ra ngoài.
Quả thật khó
khăn. Phương Tây tiếp tục sống trong phạm vi kiềm hãm của thức phô diễn. Càng cố
gắng điều chỉnh, càng rơi vào sự vận hành phô diễn của thức. Cuộc sống không một
niềm vui. Không thể nào đạt đến đỉnh cao của hạnh phúc. Vì khi cố gắng để vượt
qua đau khổ; đó cũng là phiền não.
Freud cho rằng:
“Vấn đề khó khăn là trở thành con người hạnh phúc thực sự." Thông thường, nếu
đã chuẩn bị tâm thức trong đường lối bình thường thế nhân, bạn có thể bớt phiền
muộn hay kém đau khổ hơn những người khác. Freud là thiên tài, có thể là người
tư duy chân chính và có cái nhìn đúng đắn nhưng chưa thể vượt qua khỏi thức.
Người Á đông
nói về tâm thức cách đây 5000 ngàn năm. Với khoảng thời gian dài chỉ nói về tâm
thức và thiền định như thế nào để vượt qua thức phô diễn. Nếu đã thế thì cần gì
bệnh viện tâm thần. Bệnh tâm thần chỉ phát triển ở các nước đã phát triển như
Âu Mỹ...
Đức Phật sống tại
Ấn độ giảng giải về tầng sâu nhất của tâm thức. Ngài nói về sự rõ biết, trạng
thái trung tính, vô thức... Ngài rõ biết toàn diện nhưng không giảng về tâm thần.
Lý do rất đơn giản, phương Đông không hứng thú gì ở lại trong căn phòng nóng bức.
Và vấn đề cần làm là làm sao vượt ra căn phòng.
Họ chỉ thích
thú ở trong căn phòng (tâm thức) với điều kiện cần có cánh cửa. Họ không tô điểm
hay mổ xẻ những chi tiết trong phòng. Nhưng dứt khoát họ không muốn sống trong
căn phòng trong sự tù hãm.
Người phương
Đông chỉ thích thú khi có thể tìm ra cánh cửa để thoát ra ngoài. Khi bạn không
còn bị gian phòng lôi cuốn, đương nhiên sẽ tìm ra lối thoát. Bạn có thể rõ biết
khoảng không gian tù túng như thế nào. Bạn chẳng còn phiền toái gì với những thứ
vụn vặt; vì chỉ muốn biết cánh cửa ở đâu để có thể thoát khỏi nó.
Giây phút thoát
khỏi căn phòng, tức thì bạn quên mất sự tù túng. Bạn đang sống trong sự bao la
rộng mở của bầu trời tự do không vách ngăn. Như thế, nếu vượt khỏi sự ràng buộc
của thức phô diễn, sự việc gì sẽ xảy ra?
Thức phô diễn vẫn
còn đó, vẫn như xưa và bạn không cần làm bất cứ điều gì để thay đổi. Khi vượt
khỏi sự ràng buộc của thức phô diễn; mọi việc tự nhiên thay đổi và chuyển hướng.
Có thể bạn sẽ quay trở lại căn phòng nếu thấy cần thiết. Nhưng bạn trở lại bằng
một con người đầy mới lạ. Vì sự thoát khỏi đã làm bạn trở về phẩm tính sáng trong.
Con người sống
trong căn phòng kín chưa hề biết bầu trời bên ngoài như thế nào. Như thế có
nghĩa là chưa thực sự là con người. Chỉ loài côn trùng: con ong, cái kiến, sâu
bọ... quanh quẩn trong tổ kén. Khi chạm đến sự bao la, rộng mở, lập tức sẽ trở
thành là người khác. Đó là lần đầu tiên nhận ra được sự chân chính đầy rõ biết.
Bây giờ, người ấy
có thể trở lại căn phòng với phẩm tính tinh anh đầy mới lạ. Bây giờ, căn phòng
chỉ để sử dụng, không còn là nhà tù giam hãm và có thể ra khỏi nó bất cứ lúc
nào. Căn phòng chỉ là phương tiện, ngày xưa chúng ta bị giam hãm và giờ đây là
chủ nhân. Thế là Chân, Thiện, Mỹ và tính mở rộng đang đón chào.
Người phương
Đông quan tâm làm thế nào để vượt ra khỏi thức phô diễn và sử dụng nó. Đừng bao
giờ đồng hóa với nó. Đây là thông điệp và tất cả kỹ thuật thiền định là làm sao
tìm ra cánh cửa.
Làm sao sử dụng
chìa khóa, làm sao có thể mở khóa để thong dong bước ra ngoài sự rộng mở. Bây
giờ chúng ta sẽ thảo luận những phương cách này. Đầu tiên là dừng ngay tại trung
tâm của sự hoạt động và bàn luận trở lại cách dừng trước đây đã nói ở chương 13:
Bây giờ còn lại kỹ thuật chod.
Mô phỏng bạn mất
hết năng lượng
Bạn có thể ứng
dụng trong trường hợp xác thực hay mô phỏng. Thí dụ: Nằm thư giãn và cảm nhận
thân vật lý đang chết. Nhắm mắt lại, cảm nhận mình đang chết. Chẳng bao lâu sẽ
cảm nhận thân vật lý nặng dần.
Mô phỏng: “Tôi
đang chết... tôi đang chết... tôi đang chết..." Lúc ấy bạn muốn chuyển động
cánh tay cũng không thể. Nó trở nên nặng nề và chết. Tiếp tục cảm nhận mình đang
chết... chết... chết... chết... chết; và cảm nhận đúng thời khắc này chỉ còn sự
chết, Bất ngờ bạn chuyển hóa.
Khi cảm nhận
thân này chết. Ý nghĩa của chuyển hóa là gì? Hãy nhìn vào thân vật lý. Bắt đầu
cảm nhận mình đang chết, thân vật lý trở nên nặng nề. Giờ nhìn thẳng vào thân
và quên mình đang chết.
Lúc ấy, bạn trở
thành nhân chứng. Thân như xác chết và bạn chỉ ngắm nhìn. Sự chuyển hóa xảy ra;
vì thức phô diễn không còn tồn tại. Thân như đang chết trở về trạng thái thư
giãn toàn diện; và tiến trình hoạt động của thức phô diễn hoàn toàn dừng lại. Bạn
có mặt tại đó, thân tại đó; nhưng thức phô diễn không hiện hữu. Nên nhớ nó chỉ
có thể tồn tại trong sự sống chứ không thể tồn tại trong xác chết.
Bất ngờ, quyết
định một tiếng đồng hồ nữa bạn chết. Như thế sẽ làm gì trong một tiếng đồng hồ
này. Chắc chắn những suy nghĩ sẽ buông bỏ toàn diện, vì tiến trình của tư tưởng
là chỉ quan tâm đến quá khứ hay tương lai.
Bạn có ý định
mua căn nhà, chiếc xe, lập gia đình... Bạn thường xuyên để nhiều thứ linh tinh
hoạt động trong tâm trí. Bây giờ, chỉ còn một tiếng, những ưu tư không còn có ý
nghĩa nữa. Không còn quá khứ hay tương lai để mong cầu. Vì cái chết đang đến.
Bạn bỏ lại tất
cả kế hoạch và ra đi với hai bàn tay trắng. Đối với cái chết, tất cả mọi ý định
đều tàn lụi. Đối với cái chết, mọi sự lo lắng đều dừng lại. Mỗi một ưu tư, phiền
muộn hay lo lắng đều là khuynh hướng phô diễn về quá khứ hay tương lai.
Bạn phải sống
cho những hoạch định của ngày mai. Đó chính là nguyên nhân làm bạn ưu tư. Vì thế,
những người dạy thiền định thường nói: “Đừng nghĩ về tương lai." Jesus nói
với các môn đồ: “Đừng tư duy về ngày mai."
Nếu còn nghĩ
ngày mai; có nghĩa là bạn không thể đi vào thiền định. Bạn rơi vào chiều hướng
lo lắng đầy nhiễu loạn. Chúng ta cũng vẫn lo nghĩ nhưng không phải cho ngày mai
mà lại cho một đời sống khác. Chúng ta không phiền toái đời sống này mà lại lo
lắng về đời sống khác hơn, đó là vượt qua cái chết.
Ngày nọ, tôi đi
trên đường, có người tặng tôi quyển sách nhỏ. Trang bìa in hình căn nhà xinh xắn,
dễ thương và khu vườn tuyệt đẹp. Bức tranh thật hoàn thiện với dòng chữ lớn: “Bạn
có muốn căn nhà và khu vườn thiên đàng như thế không? Nó không có giá vì hoàn
toàn miễn phí?"
Tôi lật trang
tiếp. Căn nhà này không hiện hữu trên trái đất, vì quyển sách nói về đạo Thiên
chúa: “Nếu bạn mơ ước có căn nhà và khu vườn như thế. Hãy tin vào Chúa. Ai tin
vào ngài sẽ được bước vào thiên đàng."
Thức phô diễn rất
xảo quyệt, nó không nghĩ ngày mai nhưng lại hướng bạn về đời sống khác sau khi
chết để chuẩn bị về đất Chúa hay Niết bàn. Như thế không phải là trọng tâm của
chân lý, vì sự thực chân chính là không suy nghĩ hay lo lắng về đời sống trên
Thiên đàng hay Niết bàn.
Churchill sắp
chết, được hỏi: “Ông sẵn sàng gặp cha trên thiên đàng chưa?" Churchill nói:
“Đó không phải là điều tôi lo lắng. Vì tôi thường suy nghĩ không biết cha hoàn
thiện sẵn sàng hội nhập trong tôi chưa?"
Đức Phật nói: “Không
có Niết bàn, cũng không có kiếp sau"; và "Không có linh hồn và chết
là đã hoàn thành và trọn vẹn, không có gì còn lại." Người ta cho rằng ngài
phủ định luân hồi và tái sinh. Thực sự không phải thế, ngài nói để chúng ta
không còn bám vào tương lai và duy trì từng mỗi thời khắc, ở đây và ngay bây giờ
là cần thiết; để có thể đi vào thiền định dễ dàng hơn.
Nghĩ bạn đang chết.
Nhưng không phải là cái chết đang đến
hay bạn rơi xuống đất và dẫy chết.
Chỉ thư giãn và cảm nhận: “Mình đang
chết... đang chết";
Cũng không phải nghĩ đến mà mô phỏng
sự thực về cái chết,
cảm nhận từng tế bào thân và tứ chi
đang chết.
Hãy để cái chết
thẩm thấu tận vào trong. Đó là một trong những kỹ thuật thiền định tuyệt vời nhất.
Bạn cảm nhận sức nặng của thân và sự bất động tay chân. Mọi thứ đều đã chết. Và
bất ngờ bạn nhìn lại thân vật lý. Thức phô diễn không có nữa. Bạn có thể nhìn, bạn
đang ở ngay trong nhận thức hoàn toàn rõ biết.
Nhìn vào thân vật
lý, nó không phải là bạn mà chỉ là một xác chết. Khoảng cách giữa bạn và thân rất
rõ ràng trong suốt. Không một cầu nối. Thân thể đang nằm đó và bạn đứng nhìn
như một nhân chứng.
Nên nhớ:
Bạn tin mình
trú trong thân là do thức phô diễn. Nếu thức phô diễn không tồn tại, bạn không
thể cho rằng mình lưu trú trong hay ngoài thân. Bạn chỉ đơn giản hiện diện, chẳng
trong hay ngoài. Trong và ngoài là sự đơm đặt của thức phô diễn. Bạn chỉ là
nhân chứng. Khi sáng tỏ điều này, chắc chắn bạn sẽ được chuyển hóa.
Thỉnh thoảng,
có thể có những biến cố như thực. Như khi bị bệnh hay có cảm giác tuyệt vọng, bạn
cảm nhận mình sắp chết. Đây là trường hợp hữu hiệu nhất. Ứng dụng ngay kỹ thuật
này lập tức, hãy dùng nó như là sự thiền định.
Nằm xuống và cảm
nhận toàn bộ sự sống thoát ra từng lổ chân lông cho đến khi hoàn toàn mất hết
hơi sức và trở về sự bất động. Sức sống thoát ra khỏi thân vật lý và bạn chỉ
còn lại một xác chết vô hồn.
Ngay giây phút
này bạn mô phỏng:
"Nằm và cảm
nhận năng lượng thoát ra ngoài"
Chỉ trong vài
ngày; bạn sẽ biết làm thế nào năng lượng được thoát ra. Khi cảm nhận được điều
này, thân vật lý không còn gì chứa đựng bên trong, và nó được chuyển hóa. Ngay
giây phút mất hết sức sống; chính là lúc bạn chuyển hóa.
Khi năng lượng
cuối cùng đã thoát ra hết, sự chuyển hóa bắt đầu khởi động. Lúc này bạn chỉ là
nhân chứng; đứng nhìn không một phê phán hay chú tâm vào bất cứ hiện tượng nào.
Bạn chỉ nhìn hiện tượng đang nối kết vũ trụ và thân như chuyện khôi hài lớn của
tổng thể vũ trụ.
Sự chuyển hóa
làm bạn thoát khỏi sự ràng buộc của thức phô diễn. Một sự chia tay thẳng thừng
và quyết liệt. Đó là chìa khóa; và có thể ứng dụng bằng nhiều phương cách, với
bất cứ phương tiện nào bạn thích. Thí dụ: Chúng ta đã nói về chạy vòng vòng cho
đến khi kiệt sức, vẫn tiếp tục chạy... chạy... chạy...
Đừng dừng lại bởi
động cơ của thức phô diễn. Để mặc toàn thân tự buông rơi xuống mặt đất. Khi từng
tế bào trong thân không còn sức nữa, tự động bạn phải ngã xuống. Thế thôi. Khi ấy
nên ý thức trong cái nhìn toàn thân đang rơi xuống.
Thỉnh thoảng
cũng có rất nhiều sự huyền diệu xảy ra. Bạn vẫn đứng nhìn, nhưng thân lại ngã
quỵ. Nhưng đừng đồng lõa với sự rơi xuống của thân. Không nên tự mình nằm xuống,
mà tiếp tục hoạt động cho đến khi thân tự ngã xuống như xác chết. Ngay lúc cảm
nhận thân rơi xuống bạn không làm gì cả. Mở mắt ý thức toàn diện sự ngã như chết.
Đừng đánh mất cơ hội trong thời điểm này.
"Nổi bật
lên", ý nghĩa xác thực tiếng Anh là: “Trạng thái định". Đứng ngoài cuộc
là phúc lạc. Khi có cảm nhận thoát ra khỏi sự giam hãm của thân. Lúc ấy, đó là thức
phô diễn không còn hiện diện. Sau đó, bạn quay trở lại thân với hoạt động của
thức phô diễn nhưng không đánh mất trải nghiệm không còn bị chi phối.
Sự trải nghiệm
đã trở thành một phần trong cuộc sống. Nó lúc nào cũng hiện diện cho dù trong bất
cứ trường hợp nào. Hãy tiếp tục ứng dụng mỗi ngày, sẽ có rất nhiều điều mới lạ
xảy ra trong tiến trình đơn giản của trạng thái như đã chết.
Phương Tây thường
lo lắng về những rắc rối làm sao để xử lý tâm thức. Họ đã nổ lực và thử cố gắng
với nhiều phương pháp. Nhưng có thể nói, chưa mang lại hiệu quả nào đáng kể. Tất
cả sự việc chỉ là một phong trào để rồi tàn lụi.
Chuyển động của
thức phô diễn giờ là sự chuyển động của cái chết. Vì sao? Thông thường thức phô
diễn lúc nào cũng đặt để và chuẩn bị trong tư thế như xây nhà trên bãi cát. Thế
nên nỗi sợ hãi lúc nào cũng hiện diện. Nhưng trong sự chuyển động liên tục thức
phô diễn không thể tồn tại.
Vượt khỏi sự
ràng buộc của thức là phương cách độc nhất để quay trở về bình an và nội hỷ. Bạn
có thể di chuyển hay sử dụng nó. Vì thức phô diễn đã trở thành trợ huấn cụ;
nhưng đừng bao giờ đồng hóa với nó.
Tóm lại: Có hai
vấn đề để lựa chọn. Đồng hóa và lệ thuộc nó như một nô lệ. Nói theo Tantra, đó
là hình thức bệnh hoạn; và lệ thuộc vào tất cả sự chi phối của thức phô diễn. Trở
lại vị thế chủ nhân ông và thức chỉ là phương tiện để hoạt động. Chắc chắn lúc
nào bạn cũng ngập tràn trong sự tươi mát và trong sáng.
Tôi tin chắc bạn
đã quyết định với sự lưa chọn nào. Dâng hiến tự do trọn vẹn không ràng buộc. Rất
đơn giản: “Dâng hiến tự do". Tự do là hệ quả của dâng hiến. Nhưng ý nghĩa
dâng hiến là gì? Trong Vigyan Bhairava Tantra có hai kỹ thuật. Một dành cho những
người khuynh hướng lý trí và khoa học, và phần còn lại cho những người sống có
khuynh hướng thiên về con tim cảm xúc và thơ ca.
Đó là hai dạng
đối lập, không bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng có thể song hành nhưng không thể
hòa điệu. Thỉnh thoảng có thể khoa học và văn thơ gặp nhau nhưng cũng rất hy hữu.
Họ là những người bị chia cách. Khi người sống trong thơ văn là họ hoàn toàn
quên mất khoa học. Ngược lại, khoa học chỉ ưu tâm đến thế giới khác. Đó là thế
giới của tri thức, khái niệm, phân tích, toán học và Logique.
Khi chuyển hướng
đến thế giới nghệ thuật đầy tính chất thi vị. Toán học hoàn toàn vắng bặt. Chất
thơ hiện hữu. Khái niệm không còn nữa, từ ngữ vẫn còn đó nhưng luân chuyển dịu
dàng, không cứng ngắt và khô khan. Cơ sở khoa học hoàn toàn không hiện hữu, chỉ
còn lại những nốt nhạc và âm vang của vần điệu.
Tri thức và cảm
xúc. Đó là hai nền tảng căn bản. Kỹ thuật đầu tiên là hướng dẫn về chiều hướng
khoa học. Kỹ thuật thứ hai dành cho tâm thức có khuynh hướng thiên về cảm xúc.
Đó là sự dâng hiến cho tự do hoàn toàn không ràng buộc.
Bạn nên khám
phá mình thuộc về dạng thức nào. Không tính chất nào cao hay thấp hơn. Đừng vội
cho rằng người dạng tri thức cao hơn người sống bằng tình cảm. Đơn giản chỉ
phân tích mình thuộc tính chất nào. Thế thôi.
Kỹ thuật thứ
hai dành cho người sống theo tình cảm. Tại sao? Bởi vì trong sự dâng hiến, họ
hoàn toàn hướng về điều gì đó một cách mù quáng. Trong sự dâng hiến, đối tượng
trở nên quan trọng hơn chính mình. Đó là niềm tin.
Người sống bằng
lý trí không tin vào bất cứ một ai hay điều gì nếu chưa được minh chứng theo hệ
thống logique. Vì thế, chỉ có thể phân tích, chỉ trích chứ không tin bất cứ điều
gì ngoài luận cứ khoa học. Người theo quan kiến lý trí, lúc nào cũng nghi. Tuy
nhiên, thỉnh thoảng cũng tin, nhưng niềm tin này không bao giờ hoàn hảo.
Họ phải tìm
những minh chứng bằng lý luận. Những điều này cần phải chính xác qua sự thực
nghiệm cụ thể bằng hiện tượng. Nhưng vấn đề lại là: Niềm tin không phụ thuộc
vào những chứng minh cụ thể bằng hiện tượng vật chất hay lý luận.
Nếu phải chứng
minh bằng hiện tượng vật chất; đó không phải là sự xác tín hay đức tin, và niềm
tin không còn cần thiết nữa. Khi không tin mặt trời, không tin bầu trời, làm
sao có thể tin mặt trời chiếu sáng?
Nếu ai hỏi bạn
tin gì về hiện tượng mặt trời mọc, bạn không hề nói: “Tôi tin tuyệt đối như thế.";
mà bạn có thể nói: “Mặt trời mọc, đương nhiên tôi biết như vậy." Không hề
thắc mắc tin hay không tin. Niềm tin là bước nhảy vào vực thẳm của những điều
bí ẩn không cần sự minh chứng.
Thật là khó
khăn và rất chướng ngại cho những người theo quan điểm lý trí, bởi vì toàn bộ sẽ
trở nên vô lý và ngu xuẩn. Trước hết, vì cần phải có bằng chứng. Nếu nói: “Có
Chúa và ta quy thuận ngài"; nhưng Chúa phải được minh chứng, thế thì Chúa
đã trở thành một định lý...
Tertullian
nói: “Tôi tin Chúa vì phi lý." Chính xác. Đó là thuộc dạng cảm tính. Ông
nói: “Vì ngài không thể chứng minh, và đó nguyên nhân tôi tin." Đây là một
dẫn chứng không cần phân tích hay lý luận. Ông hoàn toàn chính xác, bởi vì tin
là bước nhảy vào sự huyền bí không cần điều kiện hay nguyên do. Và điều này chỉ
những người sống trong cảm tính mới có thể có.
Quên sự dâng
hiến. Tìm hiểu sâu về tình yêu, bạn mới có thể hiểu dâng hiến là gì. Khi yêu ai,
chúng ta thường nói: “Rơi vào tình yêu" hay "yêu say đắm". Không
có gì rơi vào cả, chỉ có cái đầu của bạn. Bạn rơi từ đầu xuống trái tim vì ngôn
ngữ hình thành qua lý luận, còn trái tim thì mù quáng.
Tình yêu là trạng
thái điên dại, là điên rồ. Có nghĩa là bạn có thể muốn bất cứ điều gì từ đối tượng
và ngược lại. Trong tình yêu, tất cả trở thành mù quáng và điên dại. Mọi thứ đều
không còn tồn tại, duy chỉ đối tượng. Bạn có thể dùng lý lẽ hay phân tích với một
người đang mê say tình yêu hay không? Người ta đã thử nhưng không có gì minh chứng
nào về vấn đề này cả.
Khi bạn yêu
ai và có người khác nói: “Người này hoàn toàn vô tích sự, chẳng làm được gì"
hay "Khờ khạo quá, bạn có thể tìm đối tượng tốt hơn". Không thể giúp
ích được gì cả. Khi đang yêu, tất cả lý lẽ đều trở thành vô ích. Tình yêu có tiếng
nói riêng của nó. Có nghĩa là ngay bây giờ, bạn có cách cư xử riêng không còn
chia chẻ và đối lập.
Nhìn hai người
tình, nhìn cách đối xử và sự trao đổi của họ. Nó đã là một. Họ dùng ngôn ngữ
như trẻ con. Tại sao? Ngay cả những nhà khoa học nổi tiếng, khi rơi vào tình
yêu, cũng bắt đầu dùng ngôn ngữ trẻ thơ. Tại sao không thể dùng từ ngữ văn minh
hiện đại? Chẳng qua nó không còn hữu dụng.
Một trong những
người bạn tôi lập gia đình với cô gái người Crechoslovakian. Cô chỉ biết chút
ít tiếng Anh, và bạn tôi cũng chỉ bập bẹ tiếng của cô ta. Ông ta là bậc trí thức
dạy đại học và cô gái cũng vậy. Cả hai chỉ có thể dùng ngôn ngữ về kỹ thuật để trao
đổi và họ không sử dụng được ngôn ngữ trẻ con. Vì thế, lúc nào họ cũng xa cách
và bở ngỡ.
Ông ta nói
tình yêu chúng tôi chỉ phiến diện và hời hợt bên ngoài. Nó không thể thấm nhuần
sâu tận bên trong. Ngôn ngữ đã trở thành một chướng ngại. Tôi nói chuyện với cô
ta giống như đang dạy học. Chẳng hạn như trình bày một đề tài: Cô cần quan tâm
đến tôi như thế nào và ngược lại cô ta cũng thế. Nhưng tình yêu lại là vấn đề
hoàn toàn khác.
Tại sao chúng
ta rơi vào ngôn ngữ bập bẹ của trẻ con trong tình yêu? Vì tiếng nói bạn sử dụng
trong tình yêu đầu tiên là với người mẹ. Những từ ngữ này được thốt ra đầu tiên
là sự yêu thương. Nó không thuộc về lý trí mà xuất phát từ trái tim, là cảm xúc.
Có nghĩa là nó có phẩm tính hoàn toàn khác biệt.
Khi bạn yêu, bạn
rơi về ngôn ngữ trẻ con. Ngôn ngữ này khác hẳn vì không phụ thuộc lý trí, mà là
tiếng nói của con tim. Ngôn từ có thể không có ý nghĩa hay đại diện cho cảm xúc
hoặc tư tưởng. Nó chỉ có nghĩa duy nhất là hướng về chiều không gian khác biệt
là yên lặng trong niềm hạnh phúc lớn lao.
Khi rơi vào
tình yêu say đắm, đột nhiên bạn yên lặng; vì ngôn ngữ không thể tồn tại trong
tình yêu. Trong giây phút thiêng liêng, không thể nói gì với người tình; mà chỉ
có thể thể hiện bằng yên lặng. Vì thế, người nào nói nhiều để thuyết phục đối
tượng là mình đang yêu say đắm; đồng nghĩa với không bao giờ họ yêu hay chỉ là
tình yêu giả tạo.
Khi tình yêu
sâu lắng trở về vô ngôn, nếu không thể yên lặng với người tình, có nghĩa là chưa
thực sự yêu. Quả rất khó khăn sống trong yên lặng với người yêu khi chưa thực sự
yêu; nhưng với người xa lạ, bạn sẽ nói rất nhiều.
Vì thế, lúc
trên xe bus hay xe lửa, bạn tìm cách nói với người bên cạnh và làm họ phải nhàm
chán. Có lẽ vì bạn nghĩ rằng ngồi yên lặng với người kế bên là quái dị, kỳ quặc
hay bất lịch sự. Và không có sự nối tiếp nào khác để chứng minh ngoại trừ tìm
chuyện để nói huyên thuyên.
Thể hiện sự nối
liền tâm thức với người xa lạ là điều hoàn toàn khó khăn vì mỗi người đều tự
đóng cho mình cái khung vững chắc bằng quan niệm. Hai hàng rào cản được dựng
lên bằng sự phòng thủ những thứ sợ hãi, va chạm, xung đột và nguy hiễm...
Vì thế, trong
những giao tiếp, họ thường bắt đầu nói những chuyện nhảm nhí. Có nghĩa là hình
thành cầu nối bằng cách nói về thời tiết hay về bất cứ chuyện gì... Những chuyện
phù phiếm đâu đâu nhưng cho họ cảm giác được nối liền với những truyền thông
trong hệ thống giao thiệp.
Hai người
tình sẽ rơi vào yên lặng. Khi người tình bắt đầu nói, có nghĩa là người yêu
không còn hiện diện và trở thành xa lạ. Hãy nhìn hai vợ chồng. Lúc một mình, họ
bắt đầu nói đủ thứ chuyện với chính mình. Tuy nhận biết là không cần thiết
nhưng không thể nào họ sống trong trạng thái yên lặng.
Khi yêu nhau,
ngôn ngữ trở nên vô dụng và không còn tồn tại. Ngôn ngữ thuộc về lý trí, điều
kiện và lý lẽ để thể hiện những mong cầu. Đầu tiên, khi yêu nhau bạn sử dụng
ngôn ngữ trẻ con, từ từ ngôn ngữ này cũng mất đi. Thế thì bạn rơi vào yên lặng
trong sự kết hợp truyền thông.
Sự liên lạc
hay truyền thông này là gì? Nó không còn lý trí để đối lập. Họ cảm nhận hài hòa
những chiều hướng khác nhau trong hiện thực. Họ cảm thấy an lạc và hạnh phúc
trong sự kết hợp. Nếu bạn bảo họ: Hãy minh chứng hạnh phúc là gì. Điều này hoàn
toàn bất khả.
Cho đến bây
giờ chưa có một người tình nào có thể minh chứng họ hạnh phúc trong tình yêu
như thế nào và tại sao. Bởi vì tình ái thế nhân chứa đựng đau khổ mà chỉ sự yên
lặng mới có thể mang đến niềm phúc lạc cho những người tình thực sự.
Tình yêu đầy
đau khổ và phiền muộn, vì trong tình yêu, kết hợp với đối tượng trở thành một
là điều hoàn toàn không thể. Hai tâm hồn trở thành tổng thể bao la chứ không tồn
tại trong thân vật lý. Đó là sự khác biệt giữa tình yêu và tình ái. Giữa dục
tính bản năng và sự yêu thương.
Nếu hai thể
xác trở thành một, điều này không khó khăn gì. Đó là một trong những điều dễ
dàng nhất, ngay cả loài thú vẫn làm được. Nhưng hai người kết hợp hoàn toàn là
điều rất khó khăn. Hai tâm hồn phải tan biến, lý trí phải vắng mặt, chỉ còn lại
không gian rộng mở. Không còn lý lẽ, không còn bất cứ nguyên nhân hay điều kiện
gì đặt để trong tình yêu. Như thế tình yêu mới có thể nở hoa.
Các nhà khoa
học và những người ủng hộ như Wattson Skinner cho tình yêu là ảo giác. Không có
tình yêu; đó chỉ là ảo giác và hoang tưởng là tình yêu. Bạn có cảm giác mình
đang yêu nhưng không phải tình yêu. Có nghĩa là bạn đang mộng rằng mình yêu.
Không một ai
có thể nói họ sai. Họ nói tình yêu là ảo giác, là sự trải nghiệm lâng lâng
không thực, đó chỉ do ảnh hưởng của những hóa chất từ hệ thần kinh xúc tác tế
bào thân tạo thành ảo giác. Không có gì là thực. Nó giống như những ảo giác do
những chất kích thích của ma túy, gây ảnh hưởng và hình thành cách cư xử và cho
bạn trạng thái ngộ nhận. Và không một ai minh chứng họ sai lầm.
Nhưng khi
Wattson rơi vào tình yêu, sự huyền diệu đã xảy ra. Dù ông nhận biết tất cả đều
do tính chất của các kích thích tố tác động; dù ông ta vui sướng và hạnh phúc
nhưng ông không thể minh chứng.
Nó là cái gì
đó chuyển động trong nội tại. Sự việc gì xảy ra trong tình yêu? Đối tượng trở
nên quan trọng hơn bản thân bạn và trở thành trung tâm chú ý. Lý trí luôn duy
trì trung tâm bản ngã. Tôi là trung tâm, và tất cả phải quay chung quanh để phục
vụ.
Nếu có điều
kiện, bạn có thể đi đến kết luận cùng Berkeley. Ông nói: “Chỉ có tôi hiện thực,
tất cả sự việc đều là tư tưởng thuộc về tâm trí. Làm sao tôi có thể minh chứng
bạn có mặt và đang ngồi trước mặt tôi. Làm sao tôi chứng tỏ những lý lẽ của bạn
đang có mặt tại đây. Bạn có thể chỉ là mộng. Tôi cũng là mộng và mộng đang nói
chuyện.
Bạn có thể
không hiện hữu tại đây. Làm sao tôi có thể chứng minh bạn có mặt. Tôi có thể sờ
chạm vào bạn, nhưng cũng có thể sờ chạm bạn trong mộng. Và ngay trong mộng, tôi
vẫn có cảm giác khi tôi sờ chạm. Tôi đánh ai trong mộng họ cũng la hét. Vậy làm
sao tôi phân biệt với những khán giả tại đây, không phải là mộng mà đang hiện hữu
?"
Đến nhà
thương điên, bạn nhìn thấy họ ngồi một mình độc thoại. Họ đang nói với ai vậy?
Có thể không với ai cả. Làm sao có thể minh chứng bằng tính hữu tỷ thực sự đang
hiện diện tại đây. Nếu lý trí đi đến cực độ, chỉ còn lại duy nhất tôi và tất cả
là những giấc mộng.
Con đường
tình yêu hoàn toàn trái ngược con đường phân tích. Tôi trở thành bí ẩn, bạn và
những người khác trở thành hiện thực. Nếu di chuyển đến cực điểm bạn hoàn toàn
quên mất mình và hoàn toàn dâng hiến. Nếu tình yêu đến đỉnh cao bạn hoàn toàn
biến mất. Bạn không còn có khái niệm về bản ngã, duy chỉ đối tượng tồn tại. Đó
là sự dâng hiến và phục vụ.
Tình yêu có
thể trở thành dâng hiến, là bước đầu tiên và trở thành đóa hoa phục vụ hương vị
cho người. Nhưng đối với chúng ta, tình yêu là điều hoàn toàn kỳ lạ, chỉ có
tình ái tính dục là xác thực và hiện hữu!
Tình yêu có thể
rơi vào tính dục và trở thành dụng cụ thân xác; hoặc thể hiện tinh thần dâng hiến
và trở thành điều linh thiêng. Tình yêu đứng giữa hai điều này. Thỏa mãn tình
ái là vực thẳm của dục tính. Vượt lên trên là cánh cửa mở rộng để đi vào không
gian không bờ bến. Sự vô hạn của con Bồ tát đạo.
Nếu tình yêu của
bạn trưởng thành và sâu lắng, đương nhiên người khác quan trọng hơn. Sự quan trọng
này khiến bạn có thể gọi họ là những vị thầy, là đấng tối cao, là Chúa. Đó là
lí do tại sao Meera thường kêu gọi Krisna là Chúa.
Không ai nhìn
thấy Krisna, và Meera không thể minh chứng ngài hiện hữu, nhưng cô ta cũng chẳng
thích thú chứng tỏ điều này chút nào. Cô chỉ nhấn mạnh một điểm: Krisna là đối
tượng của tình yêu.
Nên nhớ:
Dù người yêu có thực hay chỉ là sự
mô phỏng trong quán tưởng; không có gì khác biệt. Bởi vì toàn bộ quá trình chuyển
hóa đều xuyên qua dâng hiến, không thông qua người tình. Krisna có thể
không hiện hữu bằng thân vật lý. Có thể đây là điều phi lý hay vô nghĩa, nhưng
trong sự dâng hiến, lại là toàn năng.
Đối với Radha,
Krisna là hiện thực. Đối với Meera, Krisna là vô hình tướng. Đó là lí do tại
sao Meera có sự dâng hiến cao cả hơn Radha. Và ngay Radha cũng phải ganh tỵ và
ghen tuông.
Meera sống
đơn độc trong phòng và nói chuyện với Krisna. Sống với ngài mà không cần nhìn
thấy ngài. Đối với cô, ngài là tất cả. Meera không cần minh chứng vì nó như là
sự phi lý, nhưng cô chỉ cần bước nhảy và chuyển hóa. Chính sự dâng hiến đã
phóng thích cô ra khỏi tất cả những ràng buộc.
Tôi muốn nhấn mạnh vấn đề không phải
ở vấn đề: Krisna hiện thực hay không tồn tại. Mà chính là cảm thức Krisna đang
hiện hữu ngay trong tình yêu trọn vẹn. Ngay trong sự quy thuận toàn diện của kỹ
thuật rút lui cá nhân; không còn tự ngã để đi vào đối tượng hình tướng hay vô
tướng.
Bất ngờ bạn
chuyển hóa và trở về trạng thái hoàn toàn thuần khiết bởi vắng mặt vô minh. Hạt
giống của vô minh là ô nhiễm và bất tịnh. Cảm nhận từ vô minh là nguồn gốc điên
loạn và khủng hoảng. Đối với thế giới cảm tính, phục vụ vô minh là căn bệnh
truyền nhiễm.
Muốn vô minh
không tồn tại, chỉ có con đường duy nhất; và không có con đường nào khác là: “Sống
vì người, người khác quan trọng hơn tất cả." Từ từ bản ngã bạn sẽ mờ nhạt
và mất dần. Một ngày nào đó, bản ngã không còn tồn tại, chỉ còn lại sự thông tuệ
đầy cảm thông với người.
Khi bạn không
còn hiện hữu và người khác không còn là ai khác. Tất cả trở thành đối tượng. Và
khi tự ngã "cái tôi" tan biến, "ngươi hay ta" cũng tan biến.
Bạn nhận đón bước đầu tiên trong tình yêu, người khác trở nên có ý nghĩa và giá
trị hơn chính bạn. Bạn vẫn tồn tại, nhưng đúng thời điểm. Khi bạn không còn hiện
hữu, chính là đỉnh cao.
Đỉnh cao của
tình yêu rất quý hiếm và cũng rất hy hữu vì thông thường chúng ta lúc nào cũng
tồn tại và người yêu cần phải hiện diện. Khi người tình quan trọng hơn chính
mình, bạn có thể chết vì người mình yêu. Nếu bạn có thể chết vì người khác. Đó
là tình yêu. Đối tượng đã trở thành ý nghĩa sống của bạn.
Chỉ khi nào
dám chết vì người khác, mới có thể biết sống vì người khác. Nếu bạn không thể
chết vì người, đương nhiên bạn không thể sống vì người khác. Đời sống có được
là thông qua sự chết.
Trong tình
yêu, người khác trở nên quan trọng và cao quý hơn bạn nhưng bạn vẫn hiện diện.
Trong đỉnh cao giao thiệp của sự kết hợp, bạn hoàn toàn tan biến, nhưng bạn sẽ
quay trở lại. Tất cả chỉ là cái thoáng qua. Vì thế, người tình có cái nhìn
thoáng qua của sự dâng hiến. Đó là lí do tại sao trong Ấn Độ, người yêu thường
được gọi là người tình của tôi hay sự thiêng liêng của tôi. Chỉ khi nào đạt đến
đỉnh cao, đối tượng mới trở thành hoàn thiện, và người tình trở thành thiêng
liêng và tuyệt vời.
Chỉ khi nào bạn
không còn tồn tại mới chính là sự trưởng thành, và bạn có thể trở thành linh
thiêng. Nếu bạn như là Sadhana, nó trở thành sự khám phá nội tại. Nếu bạn không
sử dụng như công cụ thỏa mãn dục tính, mà thông qua tình yêu để chuyển hóa tâm
thức, Nó sẽ là tối thượng và đầy huyền diệu.
Dâng hiến tự
do. Đó là lý do chỉ có thể thoáng nhìn tự do duy nhất trong tình yêu. Khi đã kết
hợp, sự giải phóng rất vi tế tự thể hiện. Đây là sự nghịch lý bởi vì mọi người
cho rằng như thế mình sẽ trở thành nô lệ. Nếu yêu ai, chung quanh sẽ nghĩ rằng
cả hai trở thành nô lệ cho nhau. Nhưng riêng trong trường hợp này, bạn có được
cái thoáng nhìn của sự rộng mở.
Tình yêu là tự
do. Tại sao? Vì vô minh là vây bọc và tù hãm. Có thể bạn bị giam hãm và không
có lối thoát. Nếu người yêu đến thăm bạn trong nhà tù. Nhà tù tan biến trong chốc
lát. Bức tường vẫn có đó, nhưng nó không thể giam giữ bạn.
Bạn có thể
hoàn toàn quên tất cả. Bạn và người bạn yêu có thể tan biến vào nhau và trở
thành bầu trời trong không gian rộng mở để bay cao. Nhà tù đã tan biến, không
còn tồn tại. Bạn có thể đứng dưới bầu trời mở rộng không có tình yêu, hoàn toàn
tự do. Nhưng vẫn bị giam hãm trong ngục tù vì không có nơi nào để tung bay.
Chim bay trên
bầu trời, bạn thì không. Bạn cần có một khung trời rộng mở khác, không gian của
nhận thức. Chỉ có người khác mới có thể tặng bạn bầu trời này, và bạn sẽ nếm
hương vị đầu tiên của tự do. Khi người khác mở rộng cửa và bạn di chuyển. Lúc ấy
bạn mới có thể tung lượn trên bầu trời.
Tình yêu là tự
do nhưng vẫn chưa hoàn toàn. Nếu tình yêu là sự dâng hiến, nó sẽ trở thành tự
do trọn vẹn. Có nghĩa là không còn tự ngã, bạn đã rút lui trọn vẹn. Và những ai
thuộc dạng tính cảm xúc. kỹ thuật này sẽ dành riêng cho bạn.
Nếu nhìn
Ramakrishna, bạn nghĩ rằng: Ông ta chỉ là nô lệ của Mẹ Kali. Ngài không làm gì
cả nếu không có mệnh lệnh của mẹ. Ông giống như kẻ nô lệ. Nhưng sự thực, không
ai tự do hơn ông.
Lần đầu ông
được bổ nhiệm như mục sư trong nhà thờ, ông có những thái độ kỳ lạ. Hội đoàn và
ban quản trị họp lại và nói: “Trục xuất người đàn ông này ra khỏi thánh điện.
Ông có cách cư xử không dâng hiến." Xảy ra sự việc như vậy vì ông ngửi đóa
hoa đặt dưới chân Chúa. Đó là ngược lại nghi thức hành lễ truyền thống. Đóa hoa
bị ngửi không thể dâng hiến hay dâng cúng cho đấng tối cao, vì được cho rằng đã
ô nhiễm!
Ông thường nếm
thực phẩm trước rồi mới dâng cúng. Ban quản trị: “Ông làm gì thế? Hành động này
không được chấp nhận nơi đây." Ông nói: “Tôi sẽ rời bỏ chức vị này và sẽ rời
khỏi thánh điện. Nhưng tôi không thể dâng cúng thực phẩm cho Mẹ mà không không
nếm trước. Mẹ tôi thường nếm rồi mới đưa tôi dùng. Và tôi cũng không thể không
ngửi hương trước khi dâng hoa cúng Mẹ. Tôi có thể rời khỏi nơi đây; và các bạn
không thể cưỡng ép tôi không được sờ, chạm, nếm hay ngửi. Tôi có thể tiếp tục
dâng cúng Mẹ bất cứ nơi nào, vì mẹ có mặt khắp mọi nơi... Mẹ không bao giờ bị
giam hãm trong thánh điện này. Vì thế, đi đến đâu tôi cũng sẽ làm giống như vậy."
Có một số người
Mohammedan nói: “Nếu Mẹ ông hiện hữu khắp mọi nơi, thế thì tại sao không đến
nhà thờ Hồi giáo (Mosque)?" Ông trả lời: “Được rồi, tôi đang đến đây."
Ông ta lưu lại đó sáu tháng và hoàn toàn quên hẳn thánh điện Dashineshwar.
Bạn ông đến
và nói: “Bây giờ, ông có thể trở lại." Ông nói: “Mẹ có mặt khắp mọi nơi."
Người ta cho Ramakrishna là nô lệ. Nhưng sự dâng hiến là thế. Bây giờ, người
yêu của ông đã hiện hữu khắp mọi nơi. Có nghĩa là nếu bạn không có mặt nơi nào
cả, thì người yêu của bạn sẽ hiện hữu khắp mọi nơi. Nếu bạn có mặt nơi nào, người
yêu sẽ không còn hiện hữu.
Tôi nghĩ như
thế quá đủ cho ngày hôm nay.