Tinh
khiết chỉ là không chia chẻ sự vật, là hồn nhiên, sự hồn nhiên không phân biệt.
Chúng ta quen
nói về sự tinh khiết của trẻ thơ; tuy đứa trẻ đôi khi cũng nỗi giận, tham ăn thế
thì nó tinh khiết ở đâu? Ở chỗ hồn nhiên, không có sự chia chẻ trong tâm thức đứa
trẻ. Nó không phân biệt thiện, ác, đúng, sai trong suy nghĩ. Cái vô phân biệt
này là sự hồn nhiên. Ngay khi nó nổi giận, chỉ là động tác thuần khiết, đơn giản
là nổi giận đôi khi chẳng vì nguyên nhân nào rõ rệt.
Nổi giận là nổi
giận thế thôi. Nó phát tiết nỗi giận. Khi nỗi giận ra đi, không để lại dấu vết,
đứa trẻ trở lại nó như cũ.
Sự tinh khiết
không tự khởi động; và đứa trẻ tinh khiết vì nó hồn nhiên.
Trẻ càng lớn,
nó mất dần đi sự tinh khiết. Sự giận dữ đã làm giãm bớt hồn nhiên để suy tư hơn, lý lẽ hơn. Có nghĩa là sự nỗi giận
đã được hệ thống hoá và lưu trữ. Ðứa trẻ đánh mất sự hồn nhiên khi hoàn cảnh
không cho nó bùng nổ hay chuyển sang hoàn cảnh khác. Và lúc này, khi lý trí xen
vào và đứa trẻ bớt tinh khiết và không còn hồn nhiên nữa.
Dưới mắt
chúng ta, một đứa trẻ có thể là kẻ cắp. Nhưng chính đứa trẻ lại không cho vậy
vì quan niệm tư hữu không có ở chúng. Hành động này tinh khiết, nhưng khi hình
thành tinh thần tôn trọng sở hữu thì không còn thuần khiết.
Mật Ðiển cho
rằng:
Người ta chỉ
có thể tinh khiết khi trở thành như đứa
trẻ. Ðương nhiên chúng ta không còn trẻ nhưng giống như trẻ thơ. Khác nhau thì
như vậy mà giống nhau cũng vậy. Người ta chỉ tìm lại được hồn nhiên khi nào trở
lại thành trẻ thơ.
Khi đứa trẻ
trần truồng ; không ai để ý đến sự trần truồng của nó vì đứa trẻ chưa ý thức được
thân thể nên sự trần truồng của nó không như sự trần truồng của chúng ta. Còn
ta thì ý thức đến phần thân thể và cảm thấy xấu hỗ do ý thức về sự xấu hỗ và đã
được giáo dục như thế.
Chân nhân là
trở lại sự hồn nhiên. Sự trần truồng của Mahavir được thí dụ cũng hồn nhiên như
đứa trẻ thơ vì đã quên cơ thể và không còn cơ thể. Nhưng vẫn có sự khác biệt giữa
sự trần truồng của trẻ thơ và Mahavir.
Sự hồn nhiên
của trẻ thơ bắt nguồn từ cái vô minh bẩm sinh; còn sự hồn nhiên của Mahavir là
từ trí huệ. Ðứa trẻ ngày nào đó ý thức ra cơ thể mình và cảm nhận ngay sự khó
chịu khi trần truồng, nó tự che giấu vì cảm thấy tội lỗi.
Sự ngây thơ của
nó xuất phát từ vô minh bẩm sinh và vô minh tri thức giết chết hồn nhiên nguyên
thủy. Ðó là ý nghĩa của câu chuyện Adam và Eve bị trục xuất khỏi thiên đàng. Trần
truồng như trẻ thơ. Không ý thức về sự trần truồng, họ không biết giận dữ, hà
tiện, hoang phí. Vì thế hồn nhiên như trẻ thơ.
Tạo hóa cấm họ
ăn trái của cây hiểu biết; nhưng cái gì cấm đoán thì lúc nào cũng thu hút. Adam
và Eve sống trong vườn lớn cây cối um tùm nhưng chỉ "cây hiểu biết" mới
hấp dẫn họ vì nó là cây của sự cấm đoán mà chính sự ngăn cấm lại là lời mời mọc
đầy cám dỗ. Cây cấm đoán thu hút, thôi
miên và không thể kháng cự vì sự tò mò (vô minh bẩm sinh) và thế là không ngăn
được cám dỗ, họ ăn trái của Cây Cấm, Cây Của Sự Hiểu Biết.
Ngay khi họ
ăn trái hiểu biết, họ mất ngay sự hồn nhiên. Họ xấu hổ vì trần truồng, tức thì
Eve tìm cách che thân và đồng thời khi họ ý thức được cơ thể. Ý thức luôn sự giận
dữ, hoang phí, hà tiện, họ trở thành người lớn và bị trục xuất khỏi Vườn Ðịa
Ðàng.
Như vậy, trong
kinh thánh, sự hiểu biết là tội lỗi. Thế là Adam và Eve bị đuổi khỏi thiên đàng,
họ bị phạt vì đã ăn trái hiểu biết. Và duy chỉ những kẻ vô tội mới được vào Nước
Trời.
Chuyện trên
đã đi vào lịch sử nhân loại. Trẻ thơ bị đuổi khỏi thiên đàng, trẻ thơ sống
trong hồn nhiên, trong sạch. Nhưng sự trong sạch xuất phát từ vô minh bẩm sinh,
vì thế sự trong sạch không tồn tại được lâu dài.
Nếu sự trong
sạch (vô minh bẩm sinh) không trở thành
sự tinh khiết của trí huệ, nó sẽ biến đi và sớm hay muộn gì trẻ phải ăn trái cấm.
Cây hiểu biết
bây giờ được thế bằng học đường, trường trung học và đại học. Trẻ mất sự hồn
nhiên do thế giới chỉ tồn tại bằng sự hiểu biết.
Chúng ta
không thể tồn tại mà không học hỏi và sự
hiểu biết sinh ra sự chia chẻ để người ta bắt đầu phân biệt cái ác và cái thiện
theo quy ước (vô minh tri thức).
Như vậy, sự
che mờ theo Mật Điển là sự phân biệt giữa thiện và ác. Cần phân biệt người ta mới
có thể trong sạch! Hiểu biết cái gì là cái xấu là cần thiết và chúng ta không
thể không kinh qua hiểu biết, cần phải đi qua nó và điều này nằm trong cuộc sống.
Nhưng chúng
ta hiểu biết để có thể chuyển hóa trở lại trong sạch, hồn nhiên. Khi những phân
biệt mất đi tính thuyết phục, khi sự hiểu biết phân biệt về tính tích cực và
tiêu cực không còn nữa. Chúng ta mới có thể nhìn thế giới với cặp mắt mới.
Chúa nói: "Hãy
cho trẻ đến với tôi vì đất trời dành cho
những ai giống chúng."
Lão tử nói: "Chúng
ta chẻ một sợi tóc, trời và địa ngục sẽ tự xuất hiện."
Tâm thức chân
nhân không tách rời những sự vật. Chân nhân không cần quan tâm cái nào thiện, cái
nào ác. Họ như đứa trẻ nhưng khác người là biết phân biệt. Người đã biết sự
phân biệt nhưng để vượt khỏi nó vì họ đã chuyển hóa nó. Người biết bóng tối và
ánh sáng nhưng khi đã vượt ra khỏi chúng, bây giờ họ biết: chỉ khi nào có vô
minh mới có giải thoát.
Ðối với người,
vô minh và giải thoát là một tổng thể, những trình độ khác nhau trong cùng hiện
tượng giống nhau (đồng tánh bất đồng dạng). Như vậy, người thấy tất cả. Cái chết
cũng như cái sống, tình yêu và lòng thù hận, thiện và ác; tất cả đều cùng một
hiện tượng, tất cả đều theo cùng dòng năng lượng.
Chỉ khác nhau
duy nhất là cường độ. Tất cả đều có thể chia chẻ và người ta không thể nói:
"Từ điểm này sinh ra sự phân biệt." Thế nào là Thiện? Thế nào là Ác? Từ
đâu chúng ta có thể phân biệt chúng trong khi chúng chỉ là một tổng thể, chúng chỉ là những trình độ
khác nhau trong một tổng thể và khi tâm thức bạn biết được và cảm nhận điều này,
tự nó sẽ tìm ra sự tinh khiết.
Tinh khiết
theo Mật Điển: "Là sự hồn nhiên chứ không phải chỉ là lòng tốt, lòng tốt
chưa đủ để trực nhận sự tinh khiết." Bởi vì bạn còn biết mình có lòng tốt
thì đã đánh mất hồn nhiên. Hồn nhiên còn trong vô minh bẩm sinh thì không làm
được gì cả. Bạn phải thanh trừ để đạt tới sự trưởng thành. Sự từ bỏ cái hiểu biết
và chuyển hóa hiểu biết thuộc quá trình trưởng thành để trở thành người lớn. Phải
trải qua từ đây nhưng cũng đừng dừng lại đây; mà cần tiến thêm nữa, chắc chắn sẽ
đến ngày bạn vượt ra ngoài sự việc.
Thật khó mà
hiểu được quan niệm tinh khiết trong Mật Tông vì nó quá tế nhị. Thật khó mà nhận
ra một vị thầy Mật Tông trên thực hành. Những chân nhân, những vị thánh khác bạn
có thể nhận ra vì họ có các tiêu chuẩn, những định nghĩa, những luân lý của bạn
và nó thuộc về những quy ước định vị.
Trong khi vị
thầy Mật Tông chuyển hoán tất cả sự chia chẻ. Thế nên, trong suốt quá trình lịch
sử, chúng ta không biết gì về những vị thầy Mật Tông, không một ghi chú hay văn
tự nào giới thiệu hay tiêu chuẩn hoá họ. Quả thật khó để nhận dạng.
Lão tử là sự
hiền triết, là người tỉnh thức trong tinh thần Mật Tông. Ông không biết những mật
điển, không bao giờ đọc nhưng ông nói chuyện như vị thầy Mật Tông. Khổng Tử về mặt khác, tượng trưng cho cách suy nghĩ của
chúng ta, gần như là một mô hình cố định. Ông luôn luôn nghĩ đến định danh của
Thiện và Ác, về cái phải làm và cái không phải làm. Ông quả là nhà làm luật vô
tiền khoáng hậu.
Một ngày, ông
đến viếng Lão tử và hỏi: "Thế nào là thiện? Và phải làm gì? Thế nào là ác?
Hãy định nghĩa chúng thật rõ ràng." Lão Tử trả lời: "Các định nghĩa đều
làm rắc rối vấn đề vì định nghĩa là chia chẻ."
A là A và B
là B, A không thể là B và B không thể là A. Người ta tạo ra cái nhị nguyên trong khi "Hiện Hữu"
là tổng thể. A liên tục không ngừng chuyển
hóa thành B và B chuyển hóa thành A. Cuộc sống và cái chết không ngừng hòa lẫn
nhau. Vậy, làm sao có thể định nghĩa chúng?
Trẻ trở nên
thiếu niên rồi thành người lớn. Bệnh hoạn nối tiếp sự khỏe mạnh, khoẻ mạnh đến
bệnh hoạn. Làm sao có thể định nghĩa ranh giới phân chia. Cuộc sống là một chuyển
động không ngừng. Nhưng khi định nghĩa sự việc, người ta đã đóng khung (định
danh) nên định nghĩa lúc nào cũng sai.
Lão Tử nói rằng
định nghĩa dẫn đến cái không thật. Vậy đừng nên định nghĩa sự vật, đừng cho cái
này là tốt, cái kia là xấu. Khi Khổng Tử nghe Lão tử trả lời, ông bật thốt: "Ngài
vừa nói gì đó. Như vậy làm sao có thể cai trị nước? Làm sao làm họ sáng tỏ. Làm
sao hướng dẫn họ con đường đúng?"
Lão tử cho biết:
"Khi một người cố gắng chỉ đúng hướng cho người khác, theo tôi người ấy mắc
phải lỗi lầm." Càng nhiều người hướng dẫn càng tạo nhiều mâu thuẫn. Anh là
ai mà có khả năng làm sáng tỏ? Anh là ai? Thái độ này có vẻ nguy hiểm.
Nó đã nguy hiểm!
Và người ta không thể xây dựng xã hội theo thái độ như Khổng Tử từng suy nghĩ.
Lão tử cho ông biết: "Cái tự nhiên tự nó đầy đủ." Cái tự nhiên thì hồn
nhiên, tự nó đầy đủ mà không cần luân lý, luật lệ, kỷ luật, hiểu biết.
Khổng Tử rất
lúng túng về cuộc trao đổi này. Khi đồ đệ hỏi ông: "Cái gì xảy ra trong cuộc
mạn đàm?" Khổng tử trả lời: "Ông ấy không phải là người mà là con rồng
giữa loài người, là cái nguy hiễm được nhân cách hóa. Nếu có ai nghe nói về ông,
hãy trốn đi vì người này sẽ phá hủy tư tưởng các ông."
Thật vậy, Mật
Tông tìm cách chuyển hoán tâm thức theo đúng hướng, nó phá hủy tâm thức nhị
nguyên.
Tâm thức sinh
hoạt theo những định nghĩa, những nguyên tắc và những kỷ luật.
Nó là "trật
tự"; nhưng đừng tin Mật Tông chủ trương vô trật tự, vấn đề thật ra rất là
vi tế.
Sau khi Khổng
Tử cáo lui, Lão tử bắt đầu cười, cười ngả nghiêng cho đến nỗi các môn đồ phải hỏi:
"Tại sao ngài cười dữ dội thế! Cái gì đã xảy ra?"
Lão tử trả lời:
"Thức là trở ngại cho sự thông suốt. Ngay cả Khổng Tử, ông cũng không thể
hiểu tôi. Những gì tôi bàn luận với ông đều bị hiểu sai, ông nghĩ rằng ông tạo
trật tự cho thế giới. Chúng ta không thể xây dựng trật tự xã hội. Trật tự tiềm
tàng trong cuộc đời; nó luôn luôn hiện hữu. Vậy khi người ta tin rằng người ta
có thể xây dựng trật tự thì chính cái vô trật tự chen vào. Khổng tử cho rằng
tôi tạo sự vô trật tự nhưng thực tế chính là ông. Tôi bài bác những trật tự áp
đặt vì tôi chỉ tin ở một kỷ luật hồn nhiên tự động sinh sôi nẩy nở. Không cần
thiết phải áp đặt."
Mật Tông cũng
vậy, hồn nhiên là tự bộc phát, Sahajata là chính mình mà không bị người khác áp
đặt. Chỉ đơn giản là chính mình phát triển như cây cỏ. Không phải cây cỏ trong
vườn mà là cây cỏ trong rừng. Nó phát triển tự nhiên không cần hướng dẫn, không
tự vệ, không phương hướng, không mục đích. Ðó chính là Mật Tông.
Những luật lệ
nội tại tự nó đầy đủ, không cần luật nào khác. Nếu cần những luật khác thì bạn
thật không biết định luật nội tại vì đã mất liên lạc với chúng. Ðiều quan trọng
không phải tuân theo luật bên ngoài mà phải tìm sự quân bình, tìm trung tâm của
bạn. Hãy trở về với bạn để tìm lại cái nội luật thật sự.
Về luân lý, về
những cái gọi là tôn giáo, trật tự được áp đặt cũng như đạo đức như trên từ
phía ngoài. Dưới mắt luân lý, tôn giáo, cái ác đã tiềm ẩn trong thiên nhiên. Những
thầy tu, những nhà luân lý không tin vào đạo đức con người, họ không tin vào đạo
đức nội tại. Họ quyết định rằng phải hướng dẫn, phải áp đặt đạo đức vào chính
con người.
Ðối với họ, con
người đương nhiên là xấu. Ðạo đức được xem như kỷ luật và con người là sự hỗn độn.
Phải đem lại một trật tự nào đó cho con người, như vậy đồng nghĩa họ tạo ra sự
hỗn loạn mới trên thế giới. Hô hào trật tự trong nhiều thế kỷ và thế kỷ này họ
tạo thế giới thành một dưỡng trí viện vĩ đại.
Mật Tông ngược
lại với đạo đức hô hào. Mật tông cho rằng tất cả đều tốt, đạo đức sẵn có trong chúng ta. Ðạo đức sẵn có và chỉ cần phải
phát triển một cách tự nhiên. Nó không cần chúng ta vạch một con đường.
Sự giận dữ, tính
dục, hà tiện không phải là những cái xấu nó chỉ là những công cụ của năng lượng.
Những công cụ không thể dùng, vì chúng ta không ở nơi trung tâm và đó là những
gì chúng ta còn thiếu. Sự giận dữ tự nó không xấu. Chẳng qua chỉ vì bạn không ở
trong chính bạn, trong nhà bạn nên nó trở thành tiêu cực.
Khi bạn hiện
hữu trong bạn, sự giận dữ trở thành một nguồn năng lượng lành mạnh, một sức mạnh
và Mật tông tin vào tính dục nội tính sẵn có trong muôn loài, tất cả đối với Mật
Tông đều trang nghiêm. Đối với Mật Tông, cái ác không có mà chỉ có "Sự Hiện
Hữu Tối Cao".
Những tôn
giáo đều dựa trên sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng đó cũng là hiện hữu của "Cái
Ác". Không có "Cái Ác", Thượng đế không thể tồn tại. Bạn đừng lầm,
trong những đền đài, bạn thấy duy chỉ
Thượng đế.
Nhưng bạn
không bao giờ thấy sau lưng Thượng đế, lúc nào "Cái Ác" cũng ẩn mình
trong những gì gọi là thánh thiện. Không Tôn giáo nào chấp nhận thế giới trong
sự toàn diện của chính nó vì thế cần phải luôn luôn lên án, tranh đấu để phá hủy
một cái gì đó và có thế Tôn giáo mới tồn tại.
Người ta nói
với bạn: "Chúng tôi nhận tình thương của bạn nhưng chúng tôi không nhận sự
thù hận của bạn. Phải thiêu hủy nó." Và đây mới xảy ra vấn đề, vì nếu bạn
phá hủy hoàn toàn sự thù hận, đồng thời cũng thiêu hủy tình thương. Vì tình
thương và hận thù là một; nếu bạn phá
hũy cái này, tất nhiên bạn cũng phá hũy cái kia.
Người ta nói
với bạn: "Chúng tôi chấp nhận sự im lặng của bạn, nhưng chúng tôi không chấp
nhận sự giận dữ của bạn." Nhưng họ không thể thấy được rằng, nếu phá hủy sự
giận dữ và sức sống của bạn cũng sẽ bị phá hủy theo. Sự yên lặng của bạn không
biểu hiện cho sự sống mà biểu hiện cho cái chết, cho cái hủy diệt.
Tất cả tôn
giáo đều chia thế giới ra làm hai phần: Thiện và Ác và cái Ác phải được phá hủy.
Nếu lý luận tới cùng, khi ta phá hủy cái ác (Quỷ) đồng thời ta cũng phá hủy cái
thiện (Thượng đế). Không một ai đi tới cùng, không ai muốn đi tới cùng vì ngay
chính giả thuyết đã mơ hồ và có thể gọi đó chỉ là tri thức mù sương.
Vậy phải làm
gì? Ta vờ đi để ra mặt đạo đức giả vì không thể làm theo những gì tôn giáo chỉ
dạy. Nếu theo những giáo điều, chúng ta sẽ đi tới cái chết; nếu không theo,
chúng ta mặc cảm vô tín ngưỡng. Vậy, phải làm sao?
Nếu xảo trí
thì sẽ chọn cái đồng tình. Chúng ta làm bộ tuân theo giáo điều và tiếp tục làm
những gì chúng ta thích. Chúng ta nỗi giận, thỏa mãn tính dục, keo kiệt trong
lúc vẫn hô hào sự giận dữ, hoang phí, hà tiện là tội lỗi.
Chúng ta làm
bộ đạo đức giả bởi vì chúng ta không thể ngay thẳng vì khi nào tôn giáo còn tồn
tại thì chúng ta không thể nào ngay thẳng. Ðiều này có vẻ như mâu thuẫn vì tôn
giáo bắt ngay thẳng nhưng trong thực tế
tôn giáo lại là mấu chốt của những gian trá. Nó đòi cái bất khả thi và trong
cái bất khả thi nó tạo ra con người đạo
đức giả. Mật Tông chấp nhận con người toàn diện vì không có chính giữa. Vì
chính giữa không phải là trung tính hay trung đạo mà là sự pha trộn.
Và con người
là một tổng thể, một tổng thể có tổ chức và chúng ta không thể chia chẻ hay pha
trộn được. Không thể nói chúng ta chấp nhận điều này và đào thải điều khác vì
đào thải liên quan mật thiết với những gì chấp nhận hay thỏa hiệp.
Hãy tưởng tượng
rằng có ai nói với bạn: "Tôi chấp nhận máu bạn lưu thông trong cơ thể; nhưng
không chấp nhận trái tim bạn đập. Vì tiếng đập của nhịp thật không thể
chịu đựng được." Nhưng sự lưu thông của máu là do trái tim và nhịp đập
trái tim liên quan đến nền tảng của quá trình lưu thông. Bạn có thể làm gì.
Trái tim và hệ thống tuần hoàn là đơn vị hữu cơ; chúng ta không thể tách lìa vì
nó hợp thành một tổng thể.
Chỉ có thể chấp
nhận bạn hoàn toàn hay khước từ bạn hoàn toàn. Thật không khó để nhận ra rằng
trái tim và hệ thống tuần hoàn liên quan mật thiết với nhau. Tình yêu và thù hận
cũng vậy. Tình yêu và thù hận thuộc về cùng một chuyển dộng.
Khi thương bạn
lìa khỏi bạn, bạn đi tìm người yêu, "Bạn thở ra."
Khi ghét ai, bạn
tự đóng kín lại, "Bạn hít vào."
Tình yêu là sự
thu hút; thù hận là xua đuổi; và đó là hai thành phần cho cùng một chuyển động.
Bạn không thể
tách rời như thế: "Bạn có thể thở ra nhưng đồng thời không thể hít vào, hay có thể hít vào nhưng không thể đồng
thời thở ra. Cả hai không thể thể hiện cùng lúc. Hoặc bạn hít vào hoặc bạn thở
ra, phải chọn một trong hai." Làm sao bạn có thể hít vào nếu bạn không có
thể thở ra? Làm sao bạn có thể thương yêu nếu bạn không thể hận thù?
Con người là
một tổng thể hữu cơ và là sự vật tự hình thành. Toàn thể vũ trụ là tổng thể hữu
cơ, cục đá trên vĩa hè là một tổng thể, cái cây là tổng thể, bông hoa, con chim
là một tổng thể. Và con người là tổng thể hữu cơ phức tạp nhất của vũ trụ.
Mật Tông cho
rằng:
"Chúng
tôi chấp nhận bạn như cái bạn là... Nhưng không nói không cần thay đổi hay
ngưng phát triển. Ngược lại; điều này muốn nói chúng ta chấp nhận những căn bản
của sự phát triển. Nhưng sự phát triển không được xem như là một lựa chọn."
Người ta thường
hỏi, ví dụ khi một người đạt được tỉnh thức: "Khi tỉnh thức cơn giận sẽ đi
đâu. Sự giận dữ, hoang phí, hà tiện đã an trú và bây giờ, chúng không để lại dấu
vết. Chúng đi về đâu?"
Bạn có thấy
bùn trong hoa sen không? Nếu bạn chưa từng thấy hoa sen trong thiên nhiên và
người ta đem lại cho bạn một cành, bạn có thể tưởng tượng đóa hoa tuyệt vời này
đã nở trong bùn thô thiển nhất của đầm lầy không?
Tất cả cái đẹp
kia đến từ nơi xấu xí nhất. Cái xấu xí, bùn nhơ vẫn ở đó nhưng nó đã hoán chuyển.
Cái hương vị tỏa ra từ hoa, cái mong manh tế nhị của những cánh hoa được rút từ
đám bùn này. Và nếu bạn cắm hoa trở lại bùn trong khoảng vài ngày nó sẽ biến đi,
nó trở thành lại bùn.
Cũng như vậy,
bạn tự hỏi bông hoa biến đi đâu. Hương thoảng đi đâu, những cánh hoa mảnh mai
đã về đâu. Bạn không thể nhận ra đức Phật, ngài cũng là người như bạn nhưng đã
chuyển hóa.
Thật vậy, tất
cả sự giận dữ, lòng hận thù, sự hoang phí ngài đều có. Tất cả những thuộc tính
của con người ngài đều có. Nhưng ngài là con người đạt đến sự phát triển cùng tột.
Như trong hoa sen, chúng ta không thấy bùn nhưng điều này không thể hiểu không
có bùn. Nó có đó, nhưng đã chuyển hóa; đã đạt đến cái hình tướng tối thượng.
Vì thế trong
Phật, không có tình thương và hận thù. Đây cũng là điểm thật khó hiểu. Ðức Phật
hình như là thể hiện tình thương toàn diện, thù hận, giận dữ hầu như không còn.
Nhưng sự yên lặng này hoàn toàn khác hẳn các bạn.
Einstein từng
nói: "Hòa bình là sự chuẩn bị của chiến tranh."
Hòa bình,
theo ta hiểu, là khoảng lắng giữa hai cuộc chiến, là chiến tranh "lạnh",
chiến tranh "nóng" đem lại sự xáo trộn, sự tàn phá và cần phải có thời
gian để xây dựng lại. Chúng ta có thói quen gọi nó là hòa bình nhưng nếu không
còn chiến tranh trên thế giới, sự "hòa bình" này sẽ không tồn tại.
Yên lặng của bạn là gì?
Chỉ đơn giản là
khoảng lắng giữa hai cơn giận dữ.
Thế nào là những
giây phút thư giãn của bạn khi đó chỉ là sự chuẩn bị cho một diễn trình khác, một
sự bùng nổ khác. Cơn giận dữ như bạn đang sống là sự hao phí năng lượng.
Bạn cần phải lấy
lại sức vì bạn không thể nổi giận liền ngay lập tức sau đó; và cũng như bạn
không thể yêu lại ngay tức khắc mà bạn cần có khoảng thời gian nào kế tiếp, khoảng
lặng của thanh khiết (brahmacharya) và điều này tùy thuộc vào tuổi tác bạn.
Nhưng sự thanh
khiết này không thể gọi là thanh khiết. Đó chỉ là thời gian cần thiết để tái lập
tình yêu; giống như khoảng lặng chia cách hai buổi ăn, bạn gọi là nhịn ăn nhưng
thật ra đó là thời gian để tiêu hóa; và cũng để ăn thêm lần nữa.
Vậy khoảng lắng
của bạn chỉ là khoảng cách giữa hai cơn giận dữ, niềm thư giãn, khoảng cách giữa
hai đối cực căng thẳng. Cái thanh khiết của bạn, khoảng cách giữa hai tham muốn,
tình yêu của bạn là khoảng cách giữa hai hận thù.
Sự yên lặng của
đức Phật không giống của bạn. Khi cơn giận dữ biến đi, yên lặng cũng biến đi bởi
vì lúc nào cũng đi đôi và không thể tách rời ra. Đức Phật là một Brahmachari, sự
tinh khiết của ngài không giống chúng ta.
Khi sự thúc đẩy
tính dục của bạn biến mất, Brahmacharya (sự mong muốn giữ mình cho thanh khiết)
cũng biến đi, vì hai thành phần của vấn đề nên sự biến đi của cái này kéo theo
sự biến mất của cái kia.
Sự thật của đức
Phật khác với chúng ta hoàn toàn; đến nỗi không thể phát hiện được. Bạn chỉ suy
nghĩ trên hệ thống nhị nguyên, bạn không thể tưởng tượng được cái gì sẽ xảy ra
cho ngài. Tất cả năng lượng của ngài đạt đến trình độ khác. Bùn trở thành hoa
sen nhưng bùn vẫn hiện hữu.
Mật Tông chấp
nhận tất cả năng lượng có từ nơi bạn: Không chối bỏ bất cứ cái gì mà chỉ chờ sự
chuyển hóa và bước đầu tiên để chuyển hóa là chấp nhận sự thật. Nhưng quả là
khó để chúng ta chấp nhận. Bạn có thể nổi giận nhiều lần trong ngày nhưng bạn
không chấp nhận cái nóng giận của bạn.
Vì sao? Bạn
không thấy rằng thật khó khăn lắm mới nổi giận nhưng sao bạn thấy quá khó khăn
để chấp nhận chúng? Vì sự kiện nổi giận đối với bạn không đáng tội bằng chấp nhận
chính sự nổi giận.
Mỗi người tự
cho mình tốt và cơn giận chỉ thoáng qua. Nó là cơn sóng ngập đầu rồi rút lui và
nó không hủy hoại hình ảnh bạn có về bạn, bạn vẫn tốt vì nó không phá hủy bản
ngã bạn mà lại hun đúc bản ngã bạn ngày càng kiên cố.
Những người xảo
trí nhất thì hối tiếc ngay sau đó, họ nổi giận để rồi hối tiếc, họ xin lỗi, xin
lỗi để có quyền nổi giận. Ðây thật là một thủ thuật vì cơn giận nói lên hình ảnh
cái ngã.
Người ta tự hỏi:
"Thế nào? Tôi bắt đầu nổi giận. Như thế có xấu không?" Lúc này con
người đạo đức xuất hiện và người ta copy ngay. Và họ tự biện hộ: "Như vậy
không tốt, tôi không lặp lại nữa, xin hãy tha thứ cho tôi." Và rồi như
không có chuyện gì xảy ra để sống tiếp tục lạnh lùng với những nỗi đau của tha
nhân...
Thế là tiếp tục
nổi giận mãi trong suốt cuộc đời chỉ để ham muốn, thủ giữ, để này... để nọ...
mà không bao giờ hài lòng. Chẳng qua đó là mánh lới của tâm thức. Những gì bạn
làm thì hời hợt vì bạn nghĩ dù gì mình vẫn
tốt kia mà. Nhưng nếu bạn chấp nhận rằng giận dữ là một phần của bạn thì không
còn nghĩ rằng bạn tốt.
Cơn giận dữ
không còn thoáng qua mà nó nằm trong bản chất, không do sự chọc tức bên ngoài, ngay
cả khi bạn sống một mình cơn giận dữ vẫn hiện hữu.
Khi bạn không
giận dữ; nó vẫn còn đó vì nó chính là năng lượng của bạn, là thành phần của bạn.
Nó không phải
bùng ra rồi tắt đi, nó không thể bùng nổ nếu nó luôn hiện hữu. Bạn có thể tắt mở
ánh sáng nhưng lưu lượng nguồn sáng vẫn chảy. Nếu lưu lượng bị cúp đi bạn không
thể đóng mở ánh sáng và lưu lượng giận dữ, lưu lượng tính dục lúc nào cũng là
dòng chảy liên tục; bạn có thể đóng mở tùy theo hoàn cảnh.
"Chấp nhận"
có nghĩa là giận dữ không phải là một hành động cụ thể. Cơn giận dữ là bạn và sự
hoang phí không phải là một hành động mà nó chính là bạn. Bỏn sẻn cũng không phải
là hành động mà nó cũng chính là bạn.
Chấp nhận có
nghĩa là khước từ bản ngã, khước từ việc xây dựng những hình ảnh về chúng ta thật
tuyệt vời, thật thần thánh và bảo vệ nó như trứng mỏng.
Như vậy bạn có
thể nổi giận; để nhường bước cho những tham vọng mà không dao động. Nếu chấp nhận
và nếu nói: "Tôi nổi giận, tôi hoang phí, tôi hà tiện.” Tức thì những hình
ảnh đẹp đẽ này sẽ sụp đổ.
Ðối với Mật
Tông, đây là bước đầu tiên và cũng là điều khó nhất là: "Bạn chấp nhận bạn
như bạn đang là..." Ðôi khi chúng ta lại chấp nhận một cách có tính toán
mà những bản sao của tâm thức thì vô cùng tận.
Bạn chỉ nên chấp
nhận cơn giận dữ chỉ khi nào bạn nghĩ đến chuyển hoán nó. Chúng ta nói: "Nào,
tôi đang nổi giận và bây giờ, hãy nói cho tôi biết làm sao thoát ra ngoài."
Như thế là hình ảnh của cái ngã lại được hình thành trong tương lai.
Bạn hung hăng
chẳng hạn và bạn tìm một cách vô vọng để ra khỏi nó. Bạn tự nói: "Tốt, tôi
hung bạo. Hôm nay hung bạo nhưng nhất định ngày mai sẽ không còn." Như thế
bạn phóng chiếu hình ảnh bạn vào tương lai. Bạn không nghĩ đến bạn trong hiện tại
mà bạn nghĩ mọi thứ qua lý tưởng, qua sự thụ động, tình yêu, lòng từ bi.
Bạn đang ở
tương lai, giây phút hiện tại đã trôi qua, cái ngã thật của bạn hiện hữu trong
tương lai và tiếp tục như thế để đồng hóa với những lý tưởng. Những lý tưởng
này cũng là cách để khước từ thực tại. Bạn hung hăng như nó là... chỉ cái hiện
tại hiện hữu, còn tương lai ắt sẽ đến trong sự tuyệt vời. Những lý tưởng của bạn
chỉ là những giấc mộng và đó là chính là những mánh khoé để ngăn bạn có chánh
kiến.
Nếu hung hăng;
hãy nhận nó và đừng trốn tránh, tâm thức hung hăng không thể trở thành không
hung hăng. Làm sao được. Khi cố gắng để đừng hung hăng lại càng hung hăng hơn
và để không hung hăng bạn lao mình vào những trạng thái hung hăng cực kỳ xuẩn
ngốc.
Những ai tuyệt
đối muốn không hung bạo chỉ tránh được với người khác nhưng lại hung bạo với
chính mình. Họ tự hủy diệt và ngày càng hung bạo với chính họ chỉ vì vô tình đi
vào con đường tự đề cao bản ngã.
Họ hoàn toàn
điên rồ, liều mạng thì xã hội lại cho là đó là những bậc hiền triết. Thực ra, họ
chỉ đơn giản chuyển hóa đối tượng của sự hung bạo. Thay vì hướng sự hung bạo về
người khác, họ hướng nó về chính họ cho nên sự hung bạo vẫn hiện hữu.
Hơn nữa, sự
hung bạo với người khác thường bị luật pháp, xã hội lên án và tiếc thay không
ai nghĩ ra luật lệ nào bảo vệ bạn chống lại chính bạn đang bị bạn khủng bố.
Thế có nên
chăng bạn nhận định ngay rằng mình đang hung bạo và đừng bao giờ tự gây hấn với
mình nữa? Nếu bạn quyết định sử dụng hung bạo vào chính bạn để gây hấn thì không
có gì có thể cưỡng lại được. Hơn nữa, không ai đếm xỉa đến vấn đề này vì đó là
vấn đề cá nhân. Người ta có bao giờ để ý đến những nhà tu, các vị thánh lúc nào
cũng không ngừng gây chiến với chính mình.
Một người hà tiện
thì suốt đời hà tiện. Những gì đặt ra để vượt qua cái hà tiện đều trở nên vô
ích. Người ta có thể đánh lạc hướng đối tượng của sự hà tiện. Như vậy, những
người có thói quen được gọi là những người phục dịch cho tôn giáo.
Họ nói với người
hà tiện: "Gom góp sự giàu sang để làm gì? Bạn không thể đem theo xuống tuyền
đài." Người hà tiện: "Tôi sẽ đem những tài sản theo?" Nhà tu nói: "Tôi sẽ chỉ bạn những tài
nguyên bạn sẽ đem theo: Đạo đức, những việc thiện, lòng tốt; đây là những gì
không thể lấy đi nơi bạn."
Nhà tu đánh vào
lòng tham của người hà tiện và đạt kết quả không ngờ. Người này tự hỏi: "Ông
này có lý, chúng ta phải chết một ngày nào đó. Tôi phải tích lũy cái gì đó để
đem theo chứ. Tôi mở trương mục trong nhà băng bên kia thế giới vì dù sao mình
cũng rời khỏi thế giới này."
Hãy đọc thánh
kinh, trong đó kêu gọi lòng tham của bạn. Nó nhấn mạnh: "Đừng đánh mất thời
gian của bạn vào những thú vui phù phiếm;" và điều này có nghĩa: Hãy tìm
những thú vui bền lâu.
Có thể tìm thấy
những người không tham lam đang thỏa mãn thật sự các thú vui phù phiếm. Nhưng
hãy thử tìm trong tất cả các thánh, có một người nào mà không tìm những thú vui
bất tử, như thế có phải là tham không. Lòng tham của họ lớn hơn những con người
bình thường. Họ kêu gào đừng tham nhưng sự thật thì chỉ những thú vui bất tử mới
làm họ mãn nguyện.
Lòng tham không
đáy đòi hỏi những thú vui bất tận. Những vị thánh này sẽ nói cho bạn: "Tại
sao bạn yêu người đàn bà này? Họ chỉ là người bằng xương bằng thịt. Hãy xem kỹ
đối tượng tình yêu của bạn."
Họ không chống
đối đàn bà mà sự chống đối nhằm vào máu và xác thịt, vì không muốn sống trên thế
giới này nên tạo ra thế giới khác. Họ nói: "Trên thiên đàng bạn sẽ thấy những
Apsaras, những thiên thần tuyệt vời, không bao giờ già cỗi."
Trong thiên
đàng Ấn độ, những Apsaras giữ mãi 16 tuổi; họ không già đi. Tại sao phải mất
thì giờ với một người đàn bà bình thường trong khi những thiên thần đang chờ bạn
trên thiên đường. Các thánh nhân nói vậy, họ không chống đối thú vui; mà chỉ chống
đối những thú vui phù phiếm để mãn nguyện trong thú vui bất tử.
Vì lý do nào đó,
Thượng đế ban cho cõi trần nguồn vui bất tận. Tất cả những thành trì của tôn
giáo sẽ sụp đổ. Nếu sau cái chết, người ta có thể tận hưởng tiền bạc đã tạo ra.
Chắc chắn không ai tích lũy trong ngân hàng vũ trụ; khoảng vốn nào đó cho thế
giới bên kia. Cái chết là khí cụ cần thiết cho các thầy tu để bảo vệ lý tưởng của
họ.
Người tham lam
lúc nào cũng thèm thuồng cái gì đó. Nếu người ta thuyết phục rằng lòng tham là
nguyên nhân đau khổ và nếu từ bỏ lòng tham họ sẽ đạt được niềm nội hỉ. Chắc chắn
họ sẽ cố gắng vì thật ra người ta kích thích lòng tham của họ, người ta tặng họ
hàng rào mới, mở cho họ chân trời mới.
Mật Tông nói: "Người
tham lam không thể trở thành rộng lượng; và bạo lực không thể trở thành mềm dịu."
Mới đầu xem ra
thật bi quan và nếu như vậy thì ta đành bất lực và như thế lợi ích của Mật Tông
là gì. Nếu lòng tham không thể chuyển hóa thành sự rộng lượng, bạo lực không
chuyển hóa thành hiền dịu, cuồng dâm không thể vượt qua. Vậy đối tượng của Mật
tông là gì?
Mật Tông không
cho mọi việc làm là vô ích. Chúng ta có thể làm cái gì đó theo chiều hướng khác,
người tham lam hiểu rằng họ tham lam và chấp nhận nó thay vì cố không tham lam.
Người tham lam phải ý thức chiều sâu lòng tham của họ và không cố xa lánh hay
bám vào lý tưởng hoàn toàn đối nghịch lại với bản chất.
Họ phải sống
trong hiện tại, sống với lòng tham, biết và hiểu rằng mình đang tham lam thế
thôi. Nếu bạn giữ được và sống với lòng tham, với sự hoang phí, với cơn giận dữ
thì cái ngã của bạn sẽ tan biến. Ðó là điều trước tiên và nó sẽ trở thành một
phép mầu. Bạn phải biết bạn là gì, là ai và bạn đang trong trạng thái nào và đó
chính là năng lượng của bạn.
Nhiều người đến
hỏi tôi làm cách nào diệt bản ngã. Trước hết, phải nhìn xem bản ngã là gì rồi mới
chuyển hóa nó. Bạn tham lam và bạn nghĩ rằng bạn không tham lam; đó là bản ngã.
Nếu biết và chấp nhận hoàn toàn mình tham lam ngã sẽ không còn chỗ đứng.
Nếu bạn nổi giận
và cảm thấy nó nồng nàn, bạn cảm thấy sâu sắc sự yếu đuối của bạn thì giận dữ
không còn chỗ đứng.
Mặc dù bạn thế
nào, hãy chấp nhận bạn, hãy chấp nhận bạn một cách toàn diện.
Sự từ chối chấp
nhận bản chất mới tạo ra bản ngã. Từ chối có nghĩa từ chối cái Tathata của bạn,
cái của bạn. Nếu tự chấp nhận bạn, bản ngã không thể tồn tại, nếu không tự chấp
nhận, nếu vứt bỏ trạng thái của bạn, nếu bạn tạo lý tưởng để chống đối, bản ngã
không thể biến mất vì nó được nuôi dưỡng bằng lý tưởng.
Hãy chấp nhận bạn.
Bạn hiểu ngay bạn là một con thú (sống trong bản năng), quan niệm con người nằm
trong những lý tưởng của bạn. Người ta không ngừng tự nói và nói với nhau rằng
con người không phải là con thú.
Nhưng con người
là một con thú (thú tính còn tồn động và chi phối) và bạn hãy chấp nhận mình vẫn
còn thú tính. Khi bạn chấp nhận, bạn sẽ chuyễn hóa nó ngay vì không có con thú
nào có thể biết nó là con thú. Chỉ con người mới biết mình còn đầy thú tính; thế
nên, không phải chối bỏ, con người cần nên chuyển hóa sự kiện.
Hãy chấp nhận. Khi
chấp nhận tất cả sẽ được chuyển hóa. Nhưng ai chấp nhận? Ai chấp nhận cái "tất
cả"? Chính bạn chấp nhận và chính bạn thoát ra ngoài sự chấp nhận là sự
chuyển hóa.
Nếu bạn tự chấp
nhận hoàn toàn, đột nhiên bạn ở trung tâm chính mình. Bạn không thể trốn tránh;
không thể thoát khỏi hiện trạng và bản năng của bạn. Nên quyết định chấp nhận. Thế
rồi đột nhiên bạn ở trung tâm của chính mình.
Tất cả những kỹ
thuật Mật tông đã đề cập, chúng tôi chỉ muốn làm cho bạn hiểu và hướng dẫn bằng
nhiều cách để bạn nhảy vào trung tâm của mình, để bạn vượt ra ngoài chu vi của
cái vòng lẫn quẩn đang khống chế bạn.
Bạn đã phải cố
gắng thoát ra ngoài nó bằng vô số cách, bạn trốn vào những cái gọi là lý tưởng
nhưng lý tưởng là những cách biện hộ để lẫn tránh và con người lý tưởng là con người hình thành
cái ngã vi tế.
Khi hung bạo và
bạn tự đặt lý tưởng không hung bạo, cái gì sẽ xảy ra? Nhu cầu nào đi vào trong
bạn, đi vào cái hung bạo để nó không thể tồn tại? Nhu cầu cấp thiêt nhất là
nghĩ đến cái không hung bạo, hiểu về cái không hung bạo, tìm hiểu về cái không
hung bạo và thử áp dụng chúng. Bạn sẽ thoát khỏi bạn, bạn ra ngoài chu vi, mãi
mãi không còn đụng đến vòng ngoài. Đó là điều tiên quyết.
Khi tạo ra lý
tưởng không hung bạo, bạn tìm cách lên án kẻ khác. Dễ quá mà. Theo lý tưởng này,
bạn cảm thấy có quyền nói với người khác: "Anh hung bạo." Tâm thức Ấn
độ đã tạo ra nhiều lý tưởng. Vì vậy, nên Ấn Ðộ lúc nào cũng lên án thế giới, ngay
bản chất tâm thức Ấn độ cũng bị lên án.
Tất cả thế giới
đều hung bạo trừ Ấn độ. Tôi không thấy nhiều sự "Không hung bạo"ở đây,
nhưng tôi thấy lý tưởng lấy cớ để cho phép lên án kẻ khác. Việc này không chuyển
hoá bạn mà giúp bạn có quyền lên án kẻ khác trên danh nghỉa lý tưởng.Và khi sử
dụng hung bạo, cho rằng sự hung bạo của bạn hoàn toàn khác và lý tưởng hơn sự
hung bạo của người khác.
Trong những năm
sau này, chúng ta đã sử dụng nhiều lần sự hung bạo nhưng chúng ta không khi nào
lên án sự hung bạo của chúng ta. Chúng ta luôn bảo vệ chúng và bào chữa nó bằng
những từ ngữ cao đẹp.
Khi chúng ta sử
dụng sự hung bạo ở Bangldesh, chúng ta bảo rằng giúp họ dành lại tự do. Khi sử
dụng sự hung bạo ở Cachemire là để giúp những người Cachemire. Nhưng chúng ta
biết rõ những quốc gia hiếu chiến cũng nói như vậy.
Nếu những người
Mỹ sử dụng hung bạo ở Việt Nam, đương nhiên để ra tay cứu độ những "người
nghèo". Không ai sử dụng hung bạo cho mình mà lúc nào cũng là để "giúp
người". Tôi giết bạn vì lợi ích của bạn để "giúp" bạn, cái chết
của bạn là do lòng từ bi của tôi!
Khi Ấn độ tấn
công Goa, Ấn độ gây chiến với Trung quốc. Bertand Russel đã chỉ trích Nehru như
sau: "Cái bất bạo động của ông ở đâu? Các ông vẫn là những môn đệ của
Gandhi. Lý tưởng bất bạo động của ông nó đi đâu rồi?" Ðể trả lời, Nehru cấm
phát hành và bán ra những sách của Bertrand Russell ở Ấn độ và đó phải chăng là
sự bất bạo động. Sách đúng ra phải được phát không nhưng đã được làm ngược lại.
Bertrand Russell nói: "Các ông là một dân tộc bạo động, cái bất bạo động
chỉ là hình thức chính trị. Ngài Gandhi của quý ông không phải là một hiền triết
mà là một nhà ngoại giao giỏi. Các ông nhắc nhở không ngừng bất bạo động, nhưng
khi quyền lợi của ông bị lung lay tức thì các ông không ngần ngại phủ nhận lý
tưởng này. Khi những người khác tàn sát lẫn nhau thì trên bục cao các ông có cơ hội lên án cả thế
giới." Từ đó, suy ra đối với từng cá nhân, từng xã hội, từng văn hóa, từng
quốc gia.
Nếu bạn có một
lý tưởng tức bạn không cần chuyển hóa nữa. Bạn lúc nào cũng hy vọng lý tưởng sẽ
hình thành bạn trở thành một vị thánh vào một ngày gần đây và trong lúc chờ đợi
nó cho phép bạn có thể dễ dàng lên án người khác với lớp áo lý tưởng.
Mật Tông bảo phải
ở lại với chính mình, phải chấp nhận bạn như bạn là. Nó không lên án bạn, không
lên án kẻ khác. Sự lên án thì vô ích vì phê phán không thể chuyển hóa năng lượng.
Bước đầu tiên
là chấp nhận mình. Hãy tùy sự việc, tùy cơn giận của bạn, lòng tham của bạn, sự
hoang phí của bạn và thám hiểm tất cả "sự hời hợt". Không nên ở ngoài
như phơn phớt trên mặt nước.
Hãy thám hiểm sự
kiện với tất cả cái nhìn tổng thể, hãy theo nó tới tận cùng gốc rễ sâu thẳm.
Như vậy bạn có thể chuyển hoán nó. Nếu bạn biết cơn giận bạn tận gốc rễ sâu thẳm
thì bạn sẽ làm chủ nó và cơn giận chỉ còn là một trợ huấn cụ đơn giản và bạn có
thể sử dụng chúng.
Gurdjieff hướng
dẫn học trò: "Những cơn giận dữ chánh đáng". Chúng ta đã từng nghe giảng:
"chánh định, chánh tư duy, chánh kiến," còn Gurdjieff dạy: "giận
dữ chánh đáng", "lòng tham chánh đáng"dựa theo truyền thốngMật
Tông cổ xưa.
Cái "Chánh
giận dữ" là sự nổi giận hoàn toàn. Gurdjieff nói rằng: "Nếu bạn nổi
giận thì cho nó bùng lên. Ðừng dồn nén. Hãy cho nó thoát ra với tất cả sự mãnh
liệt của chính nó. Hãy trở thành cái nổi giận. Ðừng rụt rè đứng bên ngoài mà nhảy
vào nó. Toàn thể cơ thể bạn bùng lên và bốc cháy"
Bạn không thể
đi xa và bạn không thấy ai làm vậy vì tất cả chúng ta theo qui ước không ít thì
nhiều của hệ thống văn hóa, giáo dục.
Không người nào
độc đáo cả; chúng ta thường bắt chước người khác. Nếu bạn đi sâu hoàn toàn vào
cơn giận thì bạn không còn bùng cháy, không còn cháy rụi nữa. Ngọn lửa càng sâu
sắc vì không còn tương lai và quá khứ.
Bạn là ngọn lửa
hiện tại và khi mỗi tế bào của bạn sáng rực, khi những phần của thân thể bạn rực
lửa, thì theo Gurdjieff: "Hãy ý thức nó, không nên dồn nén." Hãy ý thức
nó. Hãy ý thức sự đột xuất bạn trở thành cái gọi là giận dữ.
Trong trạng
thái hiện hữu hoàn toàn, chúng ta đột nhiên rõ biết. Chúng ta muốn bật cười vì
cái phù phiếm, ngu si, đần độn và vì tất cả mọi thứ. Và cái cười này, nó không
cố ý dồn nén một cái gì. Chúng ta cười chính mình vì ta đã chuyển hóa cái ngã. Và
cũng từ đây, cơn giận dữ không còn làm chủ bạn nữa.
Bạn biết thế
nào là giận dữ toàn diện và bạn vẫn cười được, bạn có thể ra ngoài, bạn có thể
thong dong đi ra ngoài. Bạn nhìn thế giới ngoài cơn giận dữ. Bạn biết thế nào
là giận dữ và bạn cũng biết khi tất cả năng lượng mình biến thành giận dữ, bạn
vẫn là quan sát viên, một nhân chứng.
Bạn không còn sợ
hãi nữa, chính cái vô minh tạo ra sự sợ hãi.
Bây giờ bạn không còn sợ cơn giận của bạn nữa vì sự sợ hãi không còn tồn
tại chẳng qua bạn không còn tự gây hấn với chính mình.
Người ta có
thói quen dồn nén giận dữ và nói có thể gây nguy hiểm cho người khác. Nhưng đó
không phải là nguyên nhân thật sự. Thật ra người ta sợ cơn giận dữ, người ta
không biết cái gì sẽ xảy ra và người ta sợ hãi chính bản thân mình. Người ta
không biết cái giới hạn của giận dữ; vì thế nên dồn nén nó dưới cái cớ nó gây
nguy hiểm cho người khác.
Bạn sợ cơn giận
dữ của bạn, bạn sợ năng lực tính dục của bạn. Vì bạn không buông lỏng hoàn toàn
đến độ quên cả mình. Bạn lúc nào cũng hiện hữu, tâm thức bạn lúc nào cũng hiện
hữu và khi tâm thức bạn không hoà tan trong hoạt động tính dục thì hoạt động
không còn thực.
Sự suy nghĩ
không còn nữa. Nó không còn ở đây, nếu không bạn bị phân đôi.
Khi tư tưởng hiện
hữu, hành động tính dục chỉ là xú bắp an toàn để giải thoát năng lượng.
Nhưng bạn sợ
không dám dấn thân hoàn toàn, bạn đã sợ vì được dạy dỗ nó là xấu xa, dơ bẩn.
Tại sao bạn sợ?
Vì bạn không biết khả năng bạn ra sao, cái gì có thể xảy ra trong chiều sâu nào
của vô thức dẫn bạn đi. Bạn không biết! Bạn sợ không làm chủ tình hình và như vậy
nó sẽ phá hủy hình ảnh cái ta. Chẳng qua, hoạt động tính dục chỉ đơn thuần là
hành động của xác thịt, nó chỉ là hoạt động bản năng chứ không phải từ lòng tử
tế.
Mật Tông cho rằng
hành động tính dục có tính cách cục bộ khi chỉ có trung tâm tính dục hoạt động.
Như vậy sự thư giãn sẽ cục bộ. Trung tâm tính dục không ngừng tích trữ năng lượng
cho tới lúc nào đó, năng lượng quá dư thừa thì phải tuôn ra, nếu không nó gây
nguyên nhân căng thẳng.
Vậy bạn tuôn ra
năng lượng dư thừa nhưng vẫn mang tính cách cục bộ vì cơ thể cũng như con người
toàn diện của bạn không dính dáng đến. Sự dấn thân toàn bộ chứng minh rằng mỗi
cơ bắp, mỗi tế bào cơ thể bạn tham gia vào hành động tính dục chỉ là hành động
tính dục. Tất cả con người bạn là hành động tính dục chứ không riêng gì trung
tâm tính dục.
Nhưng bạn sợ
hãi vì khi đó tất cả đều có thể xảy ra. Bạn không biết cái gì sẽ xảy ra vì bạn
chưa biết hành động tính dục một cách toàn diện vì bạn không thể tưởng tượng ra
phản ứng của bạn.
Trong toàn diện
của dấn thân, toàn thể cái vô minh bùng vỡ. Bạn sẽ có thể hét lên, la lớn hay gầm
lên như con sư tử, bạn cũng không biết. Tất cả đều có thể và cái này làm bạn sợ
hãi, sự kiện làm chủ tình hình, không buông thả làm bạn an tâm.
Trong trường hợp
này, bạn sẽ không biết gì cả và không đạt đến sự chuyển hóa vì bạn cần phải biết
cách chuyển hóa. Hãy quy phục, hãy đi sâu vào tới tận cội rễ như Mật Điển thường
nói: "Những gì dồn nén không thể chuyển hóa."
Xin chúc bạn trải
nghiệm sâu sắc hơn!