Osho - Kinh nghiệm
Mật Tông
Chương 7: Chân lí
không linh thiêng, không ô uế
Nó có từ chỗ đầu, chỗ giữa, và chỗ cuối;
Vậy mà cuối và đầu
Đều không ở đâu khác.
Tất cả những người với tâm trí
Bị lừa dối bởi ý nghĩ diễn giải
Đều trong hai tâm trí
Và do vậy thảo luận về cái không và
Từ bi như hai điều.
Ong biết rằng trong hoa
Mật có thể được tìm thấy.
Rằng luân hồi và niết bàn
Không phải là hai
Làm sao người bị lừa
Bao giờ hiểu được?
Khi người bị lừa soi gương
Họ thấy khuôn mặt, không là sự phản xạ.
Cho nên tâm trí biết chân lí thì phủ nhận
Dựa trên cái không thực.
Mặc dầu hương của hoa
Không thể được chạm tới,
Vẫn tràn ngập khắp tất cả
Và cảm nhận được ngay lập tức.
Cho nên bằng việc tự hiện hữu vô hình mẫu
Nhận ra tính tròn
Của vòng tròn huyền môn.
Chân lí hiện hữu.
Nó là đơn giản. Nó chỉ có đó. Nó chưa bao giờ tới trong sự tồn tại, chưa bao giờ
đi khỏi sự tồn tại. Nó chưa bao giờ tới, nó chưa bao giờ đi; nó tồn tại. Trong
thực tế cái tồn tại, chúng ta gọi là chân lí; nó còn lại. Cái còn lại, còn lại
vĩnh viễn, được gọi là chân lí. Nó ở chỗ bắt đầu, nó ở chỗ giữa, nó ở chỗ cuối.
Trong thực tế không có chỗ bắt đầu, không chỗ giữa, không chỗ cuối. Nó là bao
quát tất cả.
Được nhìn sâu
vào bên trong, chỗ bắt đầu là trong nó, chỗ giữa là trong nó, chỗ cuối là trong
nó; nó tràn ngập tất cả, bởi vì chỉ nó hiện hữu. Trong hàng triệu hình dạng
chính là cùng thực tại đang được diễn đạt. Hình dạng khác nhau, nhưng thực chất,
cái bản chất, là một.
Hình dạng là
như sóng còn bản chất là như đại dương. Nhớ lấy, Mật tông không nói về Thượng đế.
Nói về
Thượng đế là có
chút ít thuyết nhân vị. Nó là việc tạo ra Thượng đế theo hình ảnh của con người,
nó là việc nghĩ về Thượng đế theo ngôn từ con người; đó là việc tạo ra giới hạn.
Thượng đế phải giống như con người, đúng, nhưng ngài phải cũng giống như con ngựa
nữa, và ngài phải cũng giống như con chó nữa, và ngài phải giống như tảng đá,
và ngài phải giống như các vì sao... Ngài phải giống tất cả. Vâng, con người sẽ
được bao hàm như một dạng, nhưng con người không thể là dạng duy nhất.
Nghĩ về Thượng
đế như ngựa - có vẻ ngớ ngẩn. Nghĩ xem về Thượng đế như chó - báng bổ. Nhưng
chúng ta cứ nghĩ về Thượng đế như người, và điều đó không có vẻ báng bổ sao? Đấy
là bản ngã con người. Com người cảm thấy rất, rất hạnh phúc khi con người nghĩ
Thượng đế giống mình. Trong Kinh thánh có nói Thượng đế đã tạo ra con người
theo hình ảnh riêng của mình... chắc chắn điều này do con người viết ra. Nếu ngựa
mà viết Kinh thánh của chúng, chúng sẽ không viết điều đó, chắc chắn không.
Chúng có thể thậm chí còn viết rằng Thượng đế đã tạo ra quỉ trong hình ảnh của
con người, bởi vì Thượng đế - làm sao Thượng đế có thể tạo ra con người theo
hình ảnh riêng của ngài được, và con người đã độc ác thế với ngựa? Chẳng cái gì
trong con người dường như là thiêng liêng cả; cứ hỏi ngựa mà xem. Có thể là quỉ,
có thể là đại diện của Beelzebub, nhưng không phải Thượng đế chút nào.
Mật tông vứt bỏ
toàn bộ thuyết nhân vị. Mật tông đưa mọi thứ về đúng tỉ lệ của chúng, đưa con
người vào đúng chỗ của mình. Mật tông là một tầm nhìn vĩ đại: nó không định tâm
vào con người, nó không định tâm vào bất kì thái độ bộ phận nào. Nó nhìn thực tại
như hiện có, trong tính như thế của nó, trong tính như lai của nó, trong tính
như vậy của nó. Nó không nói về Thượng đế. Thay vì Thượng đế, Mật tông nói về
chân lí.
Chân lí không
mang tính người, vô nhân tính. Chân lí có thể có phẩm chất của tất cả, không có
giới hạn trong nó.
Kinh thánh nói:
Ban đầu Thượng đế tạo ra thế giới. Mật tông nói: Làm sao có thể có chỗ bắt đầu
và làm sao có thể có chỗ kết thúc được? Và khi không có chỗ bắt đầu và không có
chỗ kết thúc, làm sao có thể có chỗ giữa được? Nó tất cả đều vĩnh hằng, nó
không phải là thời gian; Mật tông là tầm nhìn bên ngoài thời gian. Trong thời
gian có chỗ bắt đầu và có chỗ giữa và có chỗ cuối, nhưng trong vĩnh hằng không có
chỗ bắt đầu, không có chỗ giữa, không có chỗ cuối. Nó đơn giản hiện hữu.
Chân lí không
mang tính thời gian. Trong thực tế thời gian tồn tại trong chân lí như con
sóng, và không gian tồn tại trong chân lí như con sóng. Nó không có chiều ngược
lại. Chân lí không tồn tại trong không gian, không tồn tại trong thời gian. Thời
gian và không gian tồn tại trong chân lí, chúng là các cách thức của chân lí.
Cũng như ngựa là một hình dạng, người là một hình dạng, không gian cũng là một
hình dạng, một con sóng lớn hơn, thời gian cũng vậy.
Chân lí là vô
thời gian. Chân lí là vô không gian. Chân lí là siêu việt.
Chân lí tồn tại
theo chính nó. Mọi thứ khác tồn tại với sự hỗ trợ của chân lí. Chân lí tự nó rõ
ràng; chẳng cái gì khác là tự rõ ràng cả. Chân lí là chính nền tảng của sự hiện
hữu, chất liệu tối thượng của sự tồn tại.
Mật tông không
tạo ra bất kì nghi lễ nào, không tạo ra bất kì tôn thờ nào, không tạo ra bất kì
đền thờ nào, không tạo ra giới tăng lữ; họ không được cần tới. Con người có thể
đứng mặt đối mặt với chân lí trong mối quan hệ trực tiếp; không cần người trung
gian, không cần tu sĩ. Các tu sĩ cứ nói về chân lí và Thượng đế và cõi trời và
cả nghìn lẻ một thứ, mà chẳng biết gì về điều họ nói tới. Lời, toàn lời...
chúng không có kinh nghiệm, những lời đó chỉ là trống rỗng.
Tôi đọc về một
linh mục rất nổi tiếng, đôi khi ông này cảm thấy không khoẻ; ông ấy mời bác sĩ
của mình tới để khám toàn diện cho mình. "Được," ông bác sĩ nói,
"Tôi sẽ rất thẳng thắn với ông: tôi sợ rằng phổi ông không ở trạng thái tốt.
Ông nên dành vài tháng đi Thuỵ Sĩ."
"Ôi, ông bạn
yêu dấu," linh mục đáp. "Tôi sợ rằng tôi không thể xoay xở được điều
đó. Điều đó sẽ không phải là điều có thể. Tài chính của tôi sẽ không cho phép
tôi đi. Tôi là người nghèo, ông biết rồi đấy."
"Được, điều
đó là tuỳ ông thôi. Hoặc là Thuỵ Sĩ hoặc cõi trời."
Linh mục nghĩ một
chốc rồi nói, "Ôi, thôi được, Thuỵ Sĩ."
Ai muốn lên cõi
trời? - ngay cả linh mục người liên tục nói về nó cũng không. Đấy là một thủ đoạn
để tô vẽ cái chết theo mầu sắc đẹp, nhưng mọi lúc bạn đều biết nó là cái chết.
Làm sao bạn có thể tự lừa mình được?
Gurdjieff hay
nói rằng nếu bạn muốn gạt bỏ tôn giáo... sống gần một tu sĩ và bạn sẽ gạt bỏ
tôn giáo. Có thể người thường bị lừa dối, nhưng làm sao tu sĩ có thể bị lừa dối
được? Bản thân ông ta đang tạo ra toàn bộ lừa dối này. Không tu sĩ nào đã bao
giờ bị lừa dối cả. Họ nói về điều này, họ biết cái gì đó khác. Họ nói điều này,
họ làm điều gì đó khác.
Tôi đã đọc về một
giáo sĩ...
Một người Do
Thái, một thanh niên, tới gặp giáo sĩ của mình. "Thưa giáo sĩ, con có thể
xin lời khuyên của ngài về một vấn đề khá quan trọng không?"
"Chắc chắn
được chứ," câu đáp lại đưa tới.
"Vâng chuyện
tựa như thế này: con yêu hai cô gái... Tức là con nghĩ con đang yêu. Bây giờ, một
người rất đẹp nhưng lại không có tiền, trong khi người kia thay vì xinh thì lại
rất xấu, nhưng mà cô ấy có nhiều tiền. Ngài sẽ làm gì trong hoàn cảnh này? Nếu
mà ngài là con, thưa giáo sĩ, ngài sẽ làm gì?"
"Được,"
giáo sĩ nói, "Ta chắc là trong trái tim mình con yêu cô gái đẹp, cho nên
ta nên tiến lên và cưới cô ấy."
"Phải lắm!"
chàng trai nói. "Cám ơn ngài, giáo sĩ. Đó là điều con sẽ làm."
Khi anh ta chuẩn
bị ra đi, giáo sĩ nói, "Ô, nhân tiện, ta tự hỏi liệu con có thể cho ta địa
chỉ của cô gái kia không?"
Linh mục, giáo
sĩ, cha xứ, họ biết rõ rằng bất kì cái gì họ nói tới cũng chỉ là điều vô nghĩa.
Nó là dành cho người khác, nó được ngụ ý cho người khác.
Mật tông không
tạo ra giới tăng lữ. Khi không có giới tăng lữ, tôn giáo là thuần khiết. Đem tu
sĩ vào và ông ta đầu độc nó. Đem tu sĩ vào và nhất định nó bị đầu độc, bởi vì
tu sĩ có đầu tư riêng của mình trong nó.
Một người đi
vào quán rượu và trong khi người đó uống rượu thì người đó thấy một người say
đi ra khỏi quán rượu, bằng cách nào đó lê lết mình đi, vẩn vơ. Và thế rồi bỗng
nhiên người say kia, người vừa ra khỏi quán rượu bắt đầu làm những cử chỉ dường
như người đó đang lái xe, và làm tiếng động cơ ầm ĩ cùng tiếng còi xe inh ỏi.
Người mới tới
ngạc nhiên. Anh ta hỏi người chủ quán rượu, "Sao ông không bảo thằng cha
đáng thương kia điều anh ta đang làm?''
Ông chủ quán rượu
nói, "Anh ta bao giờ cũng làm điều đó, bất kì khi nào anh ta uống quá nhiều
là anh ta lại làm thế. Bây giờ anh ta sẽ làm điều đó gần cả đêm, anh ta sẽ chạy
vòng quanh thành phố; anh ta nghĩ anh ta đang lái chiếc xe lớn."
Thế là người mới
tới nói, "Nhưng sao ông không giải thích điều đó cho anh ta?"
Ông này nói,
"Sao chúng tôi lại phải giải thích? Anh ta trả một đô la mỗi tuần để giữ
cho chiếc xe được rửa sạch."
Khi bạn có đầu
tư vào ảo tưởng của ai đó, bạn không thể phá huỷ được ảo tưởng đó. Bạn muốn rằng
ảo tưởng đó tiếp tục. Có lần một tu sĩ tới, ông ta có đầu tư vào mọi ảo tưởng của
bạn: ảo tưởng về Thượng đế, ảo tưởng về linh hồn, ảo tưởng về cõi trời, ảo tưởng
về địa ngục; ông ta bây giờ có đặt cọc lớn. Bây giờ ông ta phụ thuộc vào ảo tưởng
của bạn, ông ta sống theo ảo tưởng của bạn, ông ta khai thác ảo tưởng của bạn.
Mật tông là việc
giải ảo tưởng. Nó đã không tạo ra bất kì giới tăng lữ nào. Mật tông nói rằng vấn
đề là giữa bạn và bản thân chân lí, và không nên có ai đứng giữa bạn và chân
lí. Bạn để trái tim mình cởi mở với chân lí và chân lí là đủ. Chẳng cần ai để
diễn giải nó, bạn là đủ để biết nó là gì. Trong thực tế bạn càng tràn đầy với
các diễn giải, lại càng ít có khả năng biết cái đang đó.
Chân lí là ở chỗ
bắt đầu, chân lí là ở chỗ giữa và chân lí là ở chỗ cuối. Trong thực tế không có
chỗ giữa, không có chỗ bắt đầu, không có chỗ cuối: nó tất cả là một. Chân lí
không đi qua, nó tồn tại.
Đây là lời kinh
đầu tiên. Saraha nói với nhà vua:
Nó ở chỗ đầu,
chỗ giữa, và chỗ cuối;
Vậy mà cuối và
đầu đều không ở đâu khác.
Cuối và đầu
không ở đâu khác. Bây giờ là chân lí-thời gian, và ở đây là chân lí-không gian.
Chính khoảnh khắc này chân lí đang hội tụ ở đây... bây giờ. Chính khoảnh khắc
này là chỗ bắt đầu, là chỗ giữa, là chỗ cuối. Bạn không cần đi vào trong quá khứ
để biết khi nào sự tồn tại bắt đầu, chính khoảnh khắc này nó đang bắt đầu. Bạn
không cần phải đi vào tương lai để xem khi nào sự tồn tại sẽ kết thúc, nó đang
kết thúc chính khoảnh khắc này. Từng khoảnh khắc đều là chỗ bắt đầu, và chỗ giữa,
và chỗ cuối, bởi vì từng khoảnh khắc sự tồn tại đều mới. Từng khoảnh khắc nó đều
đang chết đi và được sinh ra. Từng khoảnh khắc mọi thứ đều đi vào trong trạng
thái không biểu lộ và quay lại trạng thái biểu lộ.
Bây giờ có tin
đồn trong vật lí hiện đại rằng thái độ Mật tông này có thể đúng, có thể đúng
sau chót. Có thể là từng khoảnh khắc mọi thứ đều biến mất và quay trở lại, lại
bật ra; biến mất, lại bật ra. Nhưng khoảng hở nhỏ đến mức chúng ta không thể thấy
được nó. Mật tông nói đó là lí do tại sao nó vẫn còn tươi tắn, sự tồn tại vẫn
còn tươi tắn.
Ngoại trừ con
người, mọi thứ đều tươi tắn, bởi vì chỉ con người mới mang tải trọng, hành lí của
kí ức. Đó là lí do tại sao con người trở nên bẩn thỉu, không sạch, nặng tải, nặng
gánh; bằng không thì toàn bộ sự tồn tại là mới mẻ và tươi tắn. Nó không mang
quá khứ và nó không tưởng tượng về tương lai. Nó đơn giản ở đây, toàn bộ ở đây!
Khi bạn mang quá khứ, phần nhiều bản thể của bạn bị dính líu vào quá khứ, mà
quá khứ thì lại không hiện hữu. Và khi bạn tưởng tượng về tương lai, phần nhiều
bản thể bạn bị dính líu vào tương lai, cái không hiện hữu, chưa có. Bạn bị căng
ra rất mỏng; đó là lí do tại sao cuộc sống của bạn không có sự mãnh liệt.
Mật tông nói để
biết chân lí người ta chỉ cần một điều: sự mãnh liệt, mãnh liệt toàn bộ. Làm
sao tạo ra mãnh liệt toàn bộ này được? Vứt bỏ quá khứ và vứt bỏ tương lai đi.
Thế thì toàn bộ năng lượng của bạn được hội tụ vào ở đây bây giờ nhỏ bé này, và
trong hội tụ đó bạn là ngọn lửa, bạn là ngọn lửa sống. Bạn là cùng ngọn lửa mà
Moses đã thấy trên núi, và Thượng đế đang đứng trong ngọn lửa đó, và ngọn lửa
đó đã không đốt cháy ông ấy. Ngọn lửa đó không đốt cháy ngay cả bụi cây xanh, bụi
cây sống động và tươi tắn và trẻ trung.
Toàn bộ cuộc sống
là ngọn lửa. Để biết nó bạn cần sự mãnh liệt, bằng không người ta sống hờ hững.
Mật tông nói chỉ một điều răn: Đừng sống hờ hững. Đấy không phải là cách sống,
đấy là việc tự tử chậm chạp. Khi bạn ăn, hãy mãnh liệt ở đó. Các nhà khổ hạnh
lên án người mật tông rất nhiều; họ nói người mật tông là những người khoái ăn
uống. Theo một cách nào đó, họ cũng đúng, nhưng theo một cách khác họ sai, bởi
vì có khác biệt lớn giữa người khoái ăn uống và người mật tông.
Người mật tông
nói: Đây là cách duy nhất để biết chân lí - trong khi bạn ăn, thế thì để chỉ có
việc ăn và không cái gì khác, thế thì quá khứ biến mất và tương lai cũng biến mất;
thế thì để toàn bộ năng lượng của bạn được rót vào thức ăn của bạn. Để cho tình
yêu và lòng thương mến và lòng biết ơn hướng tới thức ăn. Nhai từng miếng với
năng lượng lớn lao và bạn sẽ không chỉ thấy vị của thức ăn mà còn vị của sự tồn
tại, bởi vì thức ăn là một phần của sự tồn tại. Nó đem lại cuộc sống; nó đem lại
sức sống, nó đem lại prana. Nó làm cho bạn bật lên, nó giúp bạn vẫn còn sống động,
nó không chỉ là thức ăn.
Thức ăn có thể
là cái bình chứa: cuộc sống được chứa trong nó. Nếu bạn nếm chỉ thức ăn và bạn
không nếm sự tồn tại trong nó, bạn đang sống cuộc sống hờ hững; thế thì bạn
không biết cách thức người mật tông sống. Khi bạn uống nước, trở thành cơn
khát! Hãy có sự mãnh liệt cho nó, để cho từng giọt nước mát đi vào trong cổ họng
bạn và cho bạn hài lòng lớn lao, bạn sẽ nếm Thượng đế, bạn sẽ nếm thực tại.
Mật tông không
phải là đam mê thông thường: nó là đam mê phi thường. Nó không phải là đam mê
thông thường bởi vì nó đam mê trong bản thân Thượng đế. Nhưng, Mật tông nói,
chính qua những điều nhỏ bé của cuộc sống mà bạn có nếm trải. Không có điều lớn
lao trong cuộc sống, mọi thứ đều nhỏ bé. Điều nhỏ bé trở thành lớn lao và vĩ đại
nếu bạn đi vào nó một cách hoàn toàn, toàn bộ, toàn thể.
Khi làm tình với
người đàn bà hay đàn ông, hãy là tình yêu. Quên đi mọi thứ! Trong khoảnh khắc
đó để không có cái gì khác cả. Để cho toàn thể sự tồn tại hội tụ vào việc làm
tình của bạn. Để cho tình yêu đó là hoang sơ, hồn nhiên theo nghĩa rằng không
có tâm trí làm biến chất nó. Đừng nghĩ về nó, đừng tưởng tượng về nó, bởi vì tất
cả việc tưởng tượng đó và việc suy nghĩ giữ bạn nghèo nàn, dàn trải nghèo nàn.
Để cho tất cả việc tưởng tượng đó biến mất. Để cho hành động đó là toàn bộ. Bạn
trong hành động đó... mất hút, bị cuốn hút, biến mất... và thế thì, qua tình
yêu, bạn sẽ biết Thượng đế là gì.
Mật tông nói:
Điều đó có thể được biết qua việc uống, điều đó có thể được biết qua việc ăn,
điều đó có thể được biết qua tình yêu. Điều đó có thể được biết từ mọi không
gian, từ mọi xó xỉnh, từ mọi góc độ, bởi vì tất cả mọi góc độ đều là của ngài.
Nó tất cả đều là chân lí.
Và bạn đừng cho
rằng bạn không may bởi vì bạn không ở chỗ bắt đầu khi Thượng đế sáng tạo ra thế
giới. Ngài đang sáng tạo ra ngay bây giờ! Bạn may mắn được ở đây, bạn có thể thấy
ngài đang sáng tạo khoảnh khắc này. Và đừng nghĩ rằng bạn sẽ bỏ lỡ khi thế giới
biến mất trong vụ nổ; nó đang biến mất ngay bây giờ. Mỗi khoảnh khắc nó đều được
tạo ra, mỗi khoảnh khắc nó biến mất. Mỗi khoảnh khắc nó được sinh ra, mỗi khoảnh
khắc nó chết đi.
Cho nên, Mật
tông nói, để điều đó cũng là cuộc sống của bạn nữa, mỗi khoảnh khắc chết đi quá
khứ; mỗi khoảnh khắc được sinh ra mới mẻ. Đừng mang tải trọng. Vẫn còn trống rỗng.
Và...
Vậy mà cuối và
đầu đều không ở đâu khác.
Chúng là bây giờ
ở đây.
Tất cả những
người với tâm trí bị lừa dối bởi ý nghĩ diễn giải
Đều trong hai
tâm trí
Và do vậy thảo
luận về cái không và từ bi như hai điều.
Bây giờ có hai
cách để mô tả kinh nghiệm này về chân lí, kinh nghiệm tồn tại này về cái đang
đó, kinh nghiệm về tính như vậy. Có hai cách mô tả nó bởi vì chúng ta có hai kiểu
lời, khẳng định và phủ định. Nhấn mạnh của Saraha là vào phủ định, bởi vì đó là
nhấn mạnh của Phật.
Phật rất thích
phủ định bởi lí do nào đó. Khi bạn mô tả sự tồn tại với lời khẳng định, lời khẳng
định cho nó biên giới nào đó; tất cả mọi lời khẳng định đều có biên giới. Lời
phủ định không có biên giới nào; phủ định là không bị giới hạn.
Chẳng hạn, nếu
bạn gọi sự tồn tại là tất cả, Thượng đế, cái tuyệt đối, thế thì bạn đang cho một
biên giới nào đó. Khoảnh khắc bạn gọi nó là 'tuyệt đối' thì khái niệm nảy sinh
rằng điều này là kết thúc, rằng nó không còn là một quá trình đang tiếp diễn nữa.
Bạn gọi nó là 'Brahma', thế thì dường như sự hoàn hảo đã tới; bây giờ không còn
thêm gì với nó nữa. Khi bạn gọi nó là Thượng đế, bạn cho nó một định nghĩa, và
sự tồn tại lại bao la thế, nó không thể được định nghĩa. Nó bao la tới mức mọi
lời khẳng định đều không đạt tới.
Cho nên Phật đã
chọn phủ định. Ông ấy gọi nó là shunya, cái không, số không. Chỉ lắng nghe lấy
lời này ... cái không. Nếm nó, biến nó theo cách này cách nọ: bạn không thể nào
tìm thấy bất kì biên giới nào trong nó. Cái không... nó là không bị giới hạn.
Thượng đế sao? - lập tức có một giới hạn. Khoảnh khắc bạn nói 'Thượng đế', sự tồn
tại trở thành nhỏ đi một chút. Khoảnh khắc bạn nói 'cái không', tất cả mọi biên
giới biến mất.
Nhấn mạnh của
Phật là vào phủ định bởi lí do này, nhưng nhớ lấy: với không Phật không ngụ ý
chỉ là không. Khi Phật nói 'cái không' ông ấy ngụ ý tính chất không có cái gì.
Không có cái gì có thể định nghĩa được sự tồn tại bởi vì mọi thứ đều trong nó
và nó còn lớn hơn tất cả mọi thứ. Nó còn nhiều hơn tất cả mọi bộ phận được gắn
lại. Bây giờ điều này phải được hiểu... một trong những thái độ của Mật tông.
Bạn nhìn vào
bông hồng. Bạn có thể đi tới nhà hoá học; ông ta có thể phân tích hoa hồng và
ông ta sẽ nói cho bạn nó được tạo nên từ những thành tố gì - vật chất gì, hoá
chất gì, mầu gì. Ông ta có thể mổ xẻ nó. Nhưng nếu bạn hỏi, "Cái đẹp của
nó ở đâu?" ông ta sẽ nhún vai. Ông ta sẽ nói, "Tôi không thể tìm thấy
cái đẹp nào trong nó cả. Đây là tất cả những điều tôi có thể tìm thấy: nhiều mầu
này, nhiều vật chất này, những hoá chất này. Có vậy thôi. Và tôi đã không bỏ lỡ
cái gì và chẳng cái gì bị bỏ ra ngoài cả. Ông có thể cân: nó đích xác là cùng
trọng lượng như đoá hoa. Cho nên không có gì bị bỏ đi khỏi nó. Thế thì ông phải
bị lừa rồi; cái đẹp đó phải là phóng chiếu của ông."
Mật tông nói:
Cái đẹp tồn tại, nhưng cái đẹp còn nhiều hơn là tất cả các bộ phận được gắn lại
với nhau. Cái toàn thể còn nhiều hơn là tổng của các bộ phận; đó là một trong
các thái độ Mật tông, một thái độ có ý nghĩa rất lớn. Cái đẹp còn nhiều hơn cái
được thiết lập nên.
Hay một đứa nhỏ,
sôi động với niềm vui, cười khúc khích, hạnh phúc - cuộc sống có đó. Mổ đứa bé
ra, đặt đứa bé lên bàn của nhà giải phẫu; bạn sẽ thấy gì sau khi mổ xẻ? Sẽ
không có sôi động, sẽ không có tiếng cười, không khúc khích. Sẽ không có hồn
nhiên nào được tìm thấy, sẽ không có cuộc sống nào được tìm thấy. Khoảnh khắc bạn
cắt đứa bé ra, đứa bé đã mất rồi, cuộc sống biến mất. Nhưng nhà giải phẫu sẽ cứ
khăng khăng rằng chẳng cái gì còn lại cả. Bạn có thể cân; các bộ phận cân nặng
như toàn bộ đứa bé vẫn thường nặng. Chẳng cái gì bị bỏ lại, nó đích xác là cùng
đứa bé - nhưng bạn có thể thuyết phục được người mẹ rằng nó là cùng đứa bé ấy
không? Và nếu đứa trẻ thuộc về bản thân nhà giải phẫu, liệu ông ấy có được thuyết
phục nó là cùng đứa bé ấy không, các cái chi chết lăn lóc trên bàn kia?
Cái gì đó đã biến
mất. Có thể là cái gì đó không thể cân được, có thể là cái gì đó không đo được.
Có thể là cái gì đó không mang tính vật lí, có thể là cái gì đó không mang tính
vật chất, nhưng cái gì đó đã bỏ đi rồi. Đứa bé sẽ không nhảy múa thêm nữa, và đứa
bé sẽ không cười thêm nữa, và đứa bé sẽ không ăn và không uống và sẽ không đi
ngủ và sẽ không khóc và sẽ không yêu mến và sẽ không giận dữ: cái gì đó đã bỏ
đi rồi.
Mật tông nói:
Cái toàn bộ không phải là cái toàn thể. Tổng toàn bộ các bộ phận không phải là
cái toàn thể. Cái toàn thể còn nhiều hơn tổng số của các bộ phận. Và trong cái
nhiều hơn đó là kinh nghiệm về cuộc sống.
Cái không nghĩa
là tính không có cái gì. Tất cả mọi thứ gắn lại với nhau sẽ không làm ra sự tồn
tại, sự tồn tại còn nhiều hơn. Nó bao giờ cũng nhiều hơn các bộ phận của nó. Đó
là cái đẹp của nó, đó là cuộc sống của nó. Đó là lí do tại sao nó lại cực kì
thú vị, đó là lí do tại sao lại có lễ hội.
Cho nên hai điều
này - lời khẳng định và phủ định - cần phải được ghi nhớ. Mật tông sẽ dùng lời
phủ định, đặc biệt Mật tông phật giáo. Phật bao giờ cũng dùng 'không' để mô tả
cho điều tối thượng, bởi vì ông ấy nói một khi bạn bắt đầu cho các thuộc tính,
các thuộc tính đó là những nhân tố giới hạn.
Cho nên Phật nói:
Cứ khử bỏ đi - neti, neti; cứ nói cái này không có, cái này không có, cái này
không có. Và thế thì cái mà còn lại sau rốt sau tất cả mọi phủ nhận, là cái có.
Cho nên nhớ lấy
rằng cái không không có nghĩa là trống rỗng, nó có nghĩa là tràn đầy, nhưng cái
tràn đầy không thể mô tả được. Tính không thể mô tả được đó đã được mô tả qua từ
không.
Tất cả những
người với tâm trí bị lừa dối bởi ý nghĩ diễn giải
Đều trong hai
tâm trí
Saraha nói: Những
người quá phân tích, diễn giải, liên tục suy nghĩ trong các phân loại của tâm
trí, họ bao giờ cũng bị phân chia, họ bị chia chẻ. Bao giờ cũng có vấn đề cho họ.
Vấn đề không trong sự tồn tại, vấn đề đó tới từ tâm trí phân chia riêng của họ;
tâm trí riêng của họ không phải là một thể thống nhất.
Bây giờ bạn có
thể hỏi nhà khoa học nữa: ông ấy nói trí não bị phân chia thành hai phần, trái
và phải, và cả hai vận hành khác nhau; không chỉ khác nhau, cả hai vận hành đối
xứng lẫn nhau. Trí não trái là phân tích, còn trí não phải là trực giác. Trí
não trái mang tính toán học, logic, tam đoạn luận. Trí não phải mang tính thơ
ca, nghệ sĩ, thẩm mĩ, huyền môn. Và chúng sống trong các phân loại khác nhau,
và chỉ có một cây cầu rất nhỏ giữa hai phần này, chỉ một mối nối nhỏ.
Đôi khi việc xảy
ra là trong tai nạn nào đó mối nối này bị đứt và người này trở thành hai. Trong
chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều trường hợp mối nối này bị đứt là con người
trở thành hai. Thế thì người đó không phải là một người. Thế thì đôi khi người
đó sẽ nói điều này vào buổi sáng và đến tối người đó sẽ sẽ quên hoàn toàn điều
này và người đó sẽ bắt đầu nói điều gì đó khác. Vào buổi sáng bán cầu này hoạt
động, vào buổi tối bán cầu kia hoạt động - và những bán cầu này thay đổi.
Khoa học hiện đại
phải nhìn sâu vào trong điều đó. Yoga đã nhìn rất sâu vào điều đó: Yoga nói,
khi việc thở của bạn thay đổi... trong gần bốn mươi phút bạn thở qua lỗ mũi
này, và thế rồi trong bốn mươi phút bạn thở qua lỗ mũi kia. Cho tới nay khoa học
hiện đại đã không nghĩ về điều đó, tại sao việc thở thay đổi và mối quan hệ mật
thiết của nó là gì, nhưng Yoga đã nghĩ sâu về điều đó.
Khi lỗ mũi trái
của bạn làm việc, trí não phải của bạn sẽ làm việc; khi lỗ mũi phải của bạn làm
việc thì trí não trái của bạn sẽ vận hành. Đây là một loại thu xếp bên trong,
cho nên một trí não vận hành chỉ trong bốn mươi phút và thế rồi nó có thể nghỉ.
Bằng cách nào đó con người đã cảm thấy điều đó cho dù không biết đích xác nó là
gì, rằng sau mỗi bốn mươi phút bạn phải thay đổi công việc của mình. Đó là lí
do tại sao trong các trường phổ thông, cao đẳng, đại học, họ đổi tiết sau bốn
mươi phút. Một phần của trí não trở nên mệt. Bốn mươi phút dường như là giới hạn
sau chót, thế rồi nó cần nghỉ. Cho nên nếu bạn đã học toán, sau bốn mươi phút
cũng tốt là nên học thơ; thế thì bạn có thể quay lại với toán lần nữa.
Điều này trở
nên rất rõ ràng trong chiến tranh thế giới thứ hai - rằng cây cầu đó là rất nhỏ,
rất mong manh, và có thể bị gẫy bởi bất kì tai nạn nào. Và một khi nó bị gẫy
thì con người vận hành như hai người, thế thì người đó không là một người.
Trong bốn mươi phút người đó là người này, trong bốn mươi phút nữa người đó là
người khác. Nếu người đó vay tiền của bạn, sau bốn mươi phút người đó sẽ phủ nhận
điều đó, người đó sẽ nói, "Tôi chưa hề lấy tiền." Và người đó không
nói dối; nhớ lấy, người đó không nói dối. Trí não đã vay nay không còn vận hành
nữa, cho nên người đó không có kí ức về điều đó. Trí não kia thì chưa bao giờ
vay cả, trí não kia sẽ dơn giản phủ nhận thẳng thừng: "Anh có điên không đấy?
Tôi chưa bao giờ vay cái gì của anh cả."
Và điều này xảy
ra ngay cả ở những người mà mối nối không bị phá vỡ. Bạn có thể quan sát cuộc sống
riêng của mình và bạn sẽ thấy một nhịp, liên tục. Mới khoảnh khắc trước bạn còn
yêu mến thế với vợ mình, và bỗng nhiên cái gì đó nhoáng lên và bạn không còn
yêu nữa, và bạn lo nghĩ. Bởi vì bạn được nối, bạn có một thoáng kí ức, một gợi
nhớ về chỉ vài phút trước đó... Bạn yêu mến và tuôn chảy thế, và điều gì đã xảy
ra? Bỗng nhiên luồng chảy không còn đó, bạn bị đông cứng. Có thể bạn đang cầm
tay vợ mình và trí não đã thay đổi và trí não khác đã bước vào. Bàn tay kia vẫn
đang trong tay bạn, nhưng bỗng nhiên năng lượng không còn tuôn chảy, bây giờ bạn
muốn bỏ bàn tay này ra và trốn khỏi người đàn bà này. Trong thực tế bạn bắt đầu
nghĩ, "Mình đang làm gì ở đây thế này? Sao mình phí thời gian với người
đàn bà này? Cô ấy được cái gì?" Và bạn cảm thấy lo âu rất nhiều nữa, bởi
vì chỉ khoảnh khắc trước bạn còn hứa, "Anh sẽ yêu em mãi mãi." Và bạn
trở lên lo nghĩ bởi vì bạn nghĩ điều này không đúng: "Chỉ mới khoảnh khắc
trước mình đã hứa và mình lại đã nuốt lời hứa."
Bạn giận dữ và
bạn muốn giết chết ai đó, và chỉ vài phút sau đó cơn giận trôi qua, bạn không
còn giận nữa. Bạn thậm chí bắt đầu cảm thấy từ bi với người kia. Bạn bắt đầu cảm
thấy hạnh phúc: "Thật tốt là mình đã không giết người đó." Quan sát
tâm trí mình và bạn sẽ liên tục thấy sự dịch chuyển này; cơ cấu này cứ thay đổi.
Mật tông nói:
Có một trạng thái thống nhất, khi cây cầu không còn là mối nối nhỏ mà cả hai
trí não thực sự là cùng nhau. Sự cùng nhau này là gặp gỡ thực sự của đàn ông và
đàn bà, bởi vì một phần của trí não, trí não phải, là nữ tính; trí não trái là
nam tính. Và khi bạn làm tình với người đàn bà hay đàn ông, khi cực thích xảy
ra, cả hai trí não của bạn tới rất gần; đó là lí do tại sao cực thích xảy ra.
Điều đó chẳng liên quan gì tới người đàn bà này, điều đó chẳng liên quan gì tới
bất kì cái gì bên ngoài. Nó chỉ là bên trong bạn. Quan sát...
Người mật tông
đã quan sát hiện tượng yêu rất sâu sắc, bởi vì họ nghĩ - và họ cũng phải - rằng
hiện tượng lớn lao nhất trên trái đất là yêu, và kinh nghiệm lớn lao nhất của
nhân loại là cực thích. Cho nên nếu có chân lí gì đó, chân lí đó phải ở gần
trong khoảnh khắc của cực thích hơn bất kì đâu khác. Đây là logic đơn giản. Người
ta không cần rất logic về điều đó: nó là một điều hiển nhiên thế - rằng đây là
vui sướng lớn lao nhất của con người, cho nên vui sướng này bằng cách nào đó phải
là việc mở cánh cửa tới điều vô hạn... có thể rất nhẹ nhàng, rất chậm rãi, có
thể chỉ là một phần của nó, nhưng một cái gì đó của vô hạn đi vào trong nó.
Trong một khoảnh khắc người đàn ông và người đàn bà bị mất, họ không còn trong
bản ngã của mình; vỏ bao bọc họ biến mất.
Điều gì đích
xác xảy ra? Bạn có thể hỏi các nhà sinh lí nữa... Mật tông đã phát hiện nhiều
điều. Vài điều: một, khi bạn làm tình với một người đàn bà và bạn cảm thấy cực
thích và hạnh phúc, điều đó chẳng liên quan gì tới người đàn bà cả; toàn bộ sự
việc đang xảy ra bên trong bạn. Điều đó chẳng liên quan gì tới cực thích của
người đàn bà cả, chúng là không có quan hệ chút nào.
Khi người đàn
bà có cực thích của mình, cô ấy có cực thích của cô ấy; nó chẳng liên quan gì tới
bạn cả. Có thể bạn chỉ vận hành như điểm lẩy cò, nhưng cực thích của người đàn
bà là cực thích riêng của cô ấy, còn cực thích của bạn là cực thích riêng của bạn.
Các bạn cả hai là cùng nhau, nhưng cực thích của bạn là của bạn; và khi bạn có
cực thích của mình thì người đàn bà của bạn không thể chia sẻ được niềm vui sướng
đó. Không, nó hoàn toàn là của bạn. Nó là riêng tư. Cô ấy có thể thấy điều gì
đó đang xảy ra - trên khuôn mặt bạn, trong thân thể bạn - nhưng điều đó chỉ là
quan sát từ bên ngoài. Cô ấy không thể tham dự được vào trong nó. Khi người đàn
bà có cực thích của cô ấy, bạn chỉ là khán giả, bạn không còn là người tham dự
vào trong đó.
Và cho dù cả
hai bạn có cực thích cùng nhau, thế nữa vui sướng cực thích của các bạn sẽ
không nhiều hay ít; nó sẽ không bị ảnh hưởng bởi cực thích của người đàn bà, mà
cực thích của người đàn bà cũng sẽ không bị ảnh hưởng bởi bạn. Bạn là hoàn toàn
riêng tư, toàn bộ trong bản thân mình - một điều. Điều đó nghĩa là tất cả các cực
thích, sâu bên dưới, đều là tự dâm. Người đàn bà chỉ là sự giúp đỡ, cái cớ; người
đàn ông chỉ là sự giúp đỡ, cái cớ, nhưng không phải là điều phải có.
Điều thứ hai mà
người mật tông đã quan sát là: khi cực thích đang xảy ra, nó chẳng liên quan gì
tới trung tâm dục của bạn, chẳng liên quan gì tới chúng cả, bởi vì nếu trung
tâm dục bị cắt khỏi bộ não, bạn sẽ có cực thích nhưng bạn sẽ không có bất kì
vui sướng nào. Cho nên, sâu bên dưới, điều đó không xảy ra tại trung tâm dục,
nó đang xảy ra trong não. Một cái gì đó từ trung tâm dục được lẩy cò trong bộ
não, nó đang xảy ra trong bộ não. Và nghiên cứu hiện đại hoàn toàn đồng ý với
điều đó.
Bạn phải đã
nghe tới tên của nhà tâm lí nổi tiếng, Delgado. Ông ấy đã phát minh ra thiết bị
nhỏ bé... ông ấy đặt điện cực vào trong đầu và những điện cực này có thể được
điều khiển bởi bộ điều khiển từ xa. Bạn có thể có một cái hộp nhỏ các nút bấm
điều khiển từ xa. Bạn có thể để cái hộp đó trong túi áo của mình và vào bất kì
lúc nào bạn muốn có cực thích dục, bạn chỉ việc ấn vào một nút. Nó sẽ chẳng có
liên quan gì tới trung tâm dục của bạn cả; cái nút đó sẽ chỉ thúc cái gì đó
trong đầu bạn. Bên trong đầu nó sẽ thúc những trung tâm bị thúc bởi năng lượng
dục khi được tiết ra. Nó sẽ thúc chúng một cách trực tiếp và bạn sẽ có cực
thích lớn lao.
Hay bạn có thể ấn
nút khác và bạn sẽ lập tức trở nên giận dữ. Hay bạn có thể ấn nút khác và bạn sẽ
rơi vào thất vọng sâu sắc. Bạn có thể có đủ mọi nút trong cái hộp đó và bạn có
thể thay đổi tâm trạng của mình tuỳ ý thích.
Khi Delgado thực
nghiệm với các con vật của mình lần đầu tiên, đặc biệt là với chuột, ông ấy ngạc
nhiên. Ông ấy gắn điện cực vào con chuột ông ấy yêu quí nhất, được huấn luyện rất
tốt; ông ấy đã thực nghiệm với nó trong nhiều ngày, và một con chuột rất thông
minh... Ông ấy gắn điện cực vào đầu nó và đưa cái hộp cho con chuột và huấn luyện
nó ấn phím. Một lần nó biết rằng khi một nút được ấn là nó có cực thích dục,
con chuột này phát điên. Trong một ngày, sáu nghìn lần... Nó chết, bởi vì nó sẽ
chẳng đi đâu cả. Nó sẽ không ăn, nó sẽ không ngủ, nó sẽ... nó quên hết mọi thứ.
Nó chỉ cứ ấn điên cuồng vào cái nút ấn đi ấn lại mãi.
Nghiên cứu hiện
đại này trong bộ não con người nói đích xác điều Mật tông đã nói. Thứ nhất, cực
thích chẳng liên quan gì với người bên ngoài, người đàn bà của bạn, người đàn
ông của bạn. Thứ hai, nó chẳng liên quan gì tới năng lượng dục của bạn. Người
đàn bà lẩy cò năng lượng dục của bạn, năng lượng dục của bạn lẩy cò năng lượng
bộ não bạn; một trung tâm bộ não được lẩy cò, nhưng cực thích xảy ra đích xác ở
đó trong bộ não, trong đầu.
Đó là lí do tại
sao sách báo khiêu dâm lại hấp dẫn thế, bởi vì sách báo khiêu dâm có thể trực
tiếp kích thích bộ não bạn. Người đàn bà đẹp hay người đàn bà xấu chẳng liên
quan gì tới cực thích của bạn cả; người đàn bà xấu có thể cho bạn cực thích tuyệt
vời như người đàn bà đẹp. Nhưng tại sao bạn không thích người đàn bà xấu? Điều
đó không hấp dẫn cái đầu, có vậy thôi. Ngoài ra, khi có liên quan tới cực
thích, cả hai đều có khả năng. Người đàn bà xấu nhất hay người đàn bà đẹp nhất,
một Cleopatra, đều không quan trọng. Nhưng cái đầu bạn, bộ não bạn, quan tâm
nhiều tới hình dạng, tới cái đẹp. Mật tông nói, một khi chúng ta hiểu toàn bộ
cơ chế này của cực thích, một hiểu biết lớn có thể nảy sinh.
Một bước thêm nữa:
nghiên cứu hiện đại đồng ý cho tới điểm này, rằng cực thích xảy ra trong bộ
não. Cực thích của đàn bà xảy ra bên phải của bộ não; về điều đó nghiên cứu hiện
đại còn chưa có khả năng nói điều gì, nhưng Mật tông có nói. Cực thích của đàn
bà xảy ra trong não phải, bởi vì đó là trung tâm nữ tính; còn cực thích nam
tính xảy ra bên trái, đó là não nam tính. Mật tông đi xa hơn vào công trình
này, và Mật tông nói khi cả hai phía của bộ não tới cùng nhau thì vui sướng lớn
nảy sinh, cực thích toàn bộ xảy ra.
Và các bên của
bộ não có thể tới cùng nhau rất dễ dàng. Bạn càng ít phân tích hơn, chúng càng
gần hơn. Đó là lí do tại sao tâm trí diễn giải chẳng bao giờ là tâm trí hạnh
phúc. Tâm trí không diễn giải hạnh phúc hơn. Người nguyên thuỷ vui sướng hơn
cái gọi là người văn minh, người có giáo dục, có văn hoá. Con vật hạnh phúc hơn
con người, chim chóc hạnh phúc hơn; chúng không có tâm trí phân tích. Tâm trí
phân tích tạo ra lỗ hổng lớn hơn.
Bạn càng bắt đầu
nghĩ một cách logic, lỗ hổng càng lớn hơn giữa hai trí não. Bạn càng ít nghĩ một
cách logic, chúng càng gần hơn. Cách tiếp cận của bạn càng thơ ca, càng thẩm
mĩ, chúng càng tới gần hơn và sẽ có nhiều khả năng hơn cho vui sướng, sung sướng,
lễ hội.
Và điểm cuối
cùng, mà tôi nghĩ khoa học phải mất nhiều thế kỉ nữa mới đi tới... Điểm cuối
cùng là ở chỗ vui sướng không xảy ra đích xác trong bộ não: nó xảy ra trong người
chứng kiến, người đứng đằng sau cả hai bên này của bộ não. Bây giờ nếu người chứng
kiến bị gắn bó quá nhiều với tâm trí nam tính, thế thì vui sướng sẽ không xảy
ra nhiều thế. Hay nếu người chứng kiến bị gắn bó quá nhiều với tâm trí nữ tính,
thế thì vui sướng sẽ nhiều hơn chút ít, nhưng không nhiều thế.
Bạn không thể
thấy được điều đó sao? - đàn bà là sinh linh hạnh phúc hơn đàn ông. Đó là lí do
tại sao họ trông đẹp hơn, hồn nhiên hơn, trẻ hơn. Họ sống lâu, họ sống an bình
hơn, bằng lòng hơn. Họ không lo nghĩ nhiều thế; họ không tự tử nhiều thế, họ
không phát điên nhiều thế. Tỉ lệ là gấp đôi: đàn ông gấp đôi - đàn ông tự tử gấp
đôi, và trong điên cũng vậy. Và tất cả chiến tranh, nếu bạn bao hàm cả chúng nữa
trong các hoạt động tự tử và giết người, thế thì đàn ông đã chẳng làm gì khác cả.
Trong suốt nhiều thế kỉ đàn ông đã chuẩn bị chiến tranh, giết người.
Tâm trí nữ tính
vui sướng hơn bởi vì nó thơ ca hơn, thẩm mĩ hơn, trực giác hơn. Nhưng nếu bạn
không bị gắn bó với bất kì phần nào và bạn chỉ là nhân chứng, thế thì vui sướng
của bạn là hoàn toàn, tột bực. Vui sướng này chúng ta đã gọi là anand, phúc lạc.
Biết nhân chứng này là trở thành một, một tuyệt đối; thế thì đàn bà và đàn ông
trong bạn biến mất hoàn toàn, thế thì họ bị mất trong cái một. Thế thì tính cực
thích là sự tồn tại khoảnh khắc qua khoảnh khắc của bạn. Và trong trạng thái
đó, dục biến mất một cách tự động, bởi vì không có nhu cầu. Khi một người sống
một cách cực thích hai mươi tư tiếng một ngày, nhu cầu là gì?
Trong việc chứng
kiến của mình, bạn trở thành cực thích. Thế thì cực thích không phải là điều tạm
bợ, thế thì nó đơn giản là bản chất của bạn. Đây là điều cực lạc là gì.
Tất cả những
người với tâm trí bị lừa dối bởi ý nghĩ diễn giải
Đều trong hai
tâm trí
Và do vậy thảo
luận về cái không và từ bi như hai điều.
Saraha nói rằng
sự tồn tại là cái không. Nhưng đừng lo nghĩ: với 'cái không' chúng ta không ngụ
ý rằng nó là trống rỗng mọi thứ. Trong thực tế chúng ta ngụ ý nó là đầy; nó đầy
đến mức chúng ta gọi nó là không. Nếu chúng ta gọi nó là cái gì đó, cái đó sẽ tạo
ra ranh giới, còn nó không bị giới hạn, cho nên chúng ta gọi nó là không. Nhưng
các phật tử đã hỏi đi hỏi lại mãi: Nếu nó là không, thế thì từ bi này tới từ
đâu? Thế thì tại sao Phật nói về từ bi?
Saraha nói: Cái
không và từ bi là hai mặt của cùng một năng lượng. Cái không, trong sự tồn tại,
nghĩa là: tôi phải là không bản ngã. Bản ngã nghĩa là: tôi là cái gì đó. Nếu sự
tồn tại là không, còn tôi phải đi vào sự tham dự với sự tồn tại này, nếu tôi phải
trở thành một phần của sự tồn tại này, tôi phải vứt bỏ bản ngã. Bản ngã đang
làm cho tôi là ai đó, đang cho tôi một định nghĩa, một giới hạn. Khi sự tồn tại
là không có cái ta nào, nó là cái không, anatta. Thế thì tôi cũng phải là một
cái không; chỉ thế thì hai cái không này mới có khả năng gặp gỡ lẫn nhau và tan
biến vào lẫn nhau. Tôi phải trở thành vô-bản ngã, và trong vô-bản ngã đó là từ
bi.
Với bản ngã là
đam mê, với vô-bản ngã là từ bi. Với bản ngã có hùng hổ, giận dữ, độc ác; với
vô-bản ngã có lòng tốt, chia sẻ, thương mến. Cho nên Saraha nói từ bi phải
không được trau dồi. Nếu bạn có thể sống trong cái không, từ bi sẽ tuôn chảy ra
từ bạn theo cách của nó.
Tôi đã từng
nghe...
Một người tới
ông quản lí ngân hàng của mình để xin vay một khoản tiền. Sau khi ông ta đã đem
bản tường thuật chi tiết tới, ông quản lí ngân hàng nói, "Theo nghĩa vụ
thì tôi phải từ chối yêu cầu của ông, nhưng tôi sẽ cho ông một cơ hội vay được.
Bây giờ... một mắt tôi làm bằng kính; nếu ông có thể nói cho tôi nó là mắt nào
thì tôi sẽ ban cho ông món vay."
Ông khách hàng
chăm chú trong vài khoảnh khắc và rồi nói, "Nó là mắt phải, thưa ông ấy."
"Đúng rồi,"
ông quản lí ngân hàng nói - ông ta không thể nào tin được vào điều đó, làm sao
ông này lại đoán được điều đó. Ông ta nói, "Làm sao mà ông đoán được?"
"Thế
này," ông khách hàng đáp, "nó dường như từ bi hơn cho nên tôi nghĩ nó
phải là mắt kính."
Bản ngã, tâm
trí tính toán, tinh ranh, chẳng bao giờ từ bi cả, không thể thế được. Trong
chính sự tồn tại của bản ngã có bạo hành. Nếu bạn hiện hữu, bạn bạo hành. Bạn
không thể bất bạo hành được. Nếu bạn muốn bất bạo hành, bạn sẽ phải vứt bỏ cái
tôi của mình, bạn sẽ phải trở thành cái không. Bất bạo hành bắt nguồn từ cái
không. Vấn đề không phải là thực hành nó; vấn đề là trở thành không ai cả, thế
thì nó tuôn chảy. Chính khối chắn của cái tôi mới ngăn cản luồng chảy năng lượng
của bạn bằng không thì từ bi là dễ dàng.
Saraha nói: Cái
không và từ bi không phải là hai điều. Bạn là không và sẽ có từ bi. Hay bạn đạt
tới từ bi và bạn sẽ thấy mình đã trở thành không, không ai cả.
Việc đặc trưng
hoá sự tồn tại như cái không này là một bước tiến lớn hướng tới triệt tiêu bản
ngã. Và đây là một trong những đóng góp vĩ đại nhất của Phật cho thế giới. Các
tôn giáo khác cứ trau dồi, theo cách tinh vi, cho cùng bản ngã. Người ngay thẳng
bắt đầu cảm thấy, "Mình ngay thẳng"; nhà đạo đức nghĩ, "Mình đạo
đức hơn người khác." Người thực hành tôn giáo nghĩ bản thân mình mang tính
tôn giáo hơn người khác. Nhưng đây tất cả đều là đặc tính của bản ngã, và những
điều này chẳng ích gì cả, cho đến cùng.
Phật nói trau dồi
không phải là vấn đề, nhưng hiểu biết, nhận biết rằng không ai cả trong bạn mới
là vấn đề.
Bạn đã bao giờ
nhìn vào bên trong chưa? Bạn đã bao giờ đi vào bên trong và nhìn quanh chưa? Có
ai ở đó không? Bạn sẽ không thấy ai cả; bạn sẽ thấy im lặng, bạn sẽ không bắt gặp
ai cả.
Socrates nói:
Biết mình. Còn Phật nói: Nếu bạn đi tới biết, bạn sẽ không tìm thấy 'mình' nào
cả; không có ai bên trong, có im lặng thuần khiết. Bạn sẽ không đâm vào bức tường
nào cả, và bạn sẽ không bắt gặp cái ta nào cả. Nó là cái trống rỗng. Nó trống rỗng
như bản thân sự tồn tại. Và từ cái trống rỗng đó, mọi thứ đang tuôn chảy; từ
cái không đó, mọi thứ đang tuôn chảy.
Ong biết rằng
trong hoa
Mật có thể được
tìm thấy.
Rằng luân hồi
và niết bàn
Không phải là
hai
Làm sao người bị
lừa
Bao giờ hiểu được?
Bạn đã từng
quan sát điều đó không? Quanh một cái hồ đẹp, nhỏ có nhiều hoa. Ếch có thể đang
ngồi ngay cạnh gốc hoa, nhưng chúng không biết rằng hoa có mật trong đó. Ong biết
rằng trong hoa có thể tìm thấy mật. Chim nước, thiên nga, cá và ếch không biết,
ngay cả khi chúng sống bên cạnh cây cối. Để biết hoa đó có mật, người ta phải
trở thành ong. Saraha nói người mật tông giống như ong còn người khổ hạnh giống
như ếch. Người đó sống ngay bên cạnh hoa, và người đó chẳng nhận biết chút gì.
Không chỉ người đó không nhận biết, người đó còn phủ nhận. Người đó nghĩ ong bị
mê đắm, rằng ong là đồ ngốc, rằng chúng đang tự phá huỷ mình.
Saraha nói người
khổ hạnh giống như ếch, còn người mật tông giống như ong. Trong hiện tượng dục
có ẩn chứa điều siêu phàm. Trong năng lượng của dục có chìa khoá có thể mở cánh
cửa của sự tồn tại. Nhưng ếch sẽ không biết điều đó. Mật tông nói nó là hiện tượng
hiển nhiên đến mức từ năng lượng dục cuộc sống được sinh ra: điều đó nghĩa là dục
phải ở chính cốt lõi của cuộc sống. Cuộc sống tới qua năng lượng dục. Sinh linh
mới đi vào trong sự tồn tại, vị khách mới tới trong sự tồn tại - qua năng lượng
dục. Năng lượng dục là năng lượng sáng tạo
nhất. Chắc chắn, nếu chúng ta nhìn sâu
vào trong nó chúng ta có thể thậm chí tìm ra những khả năng sáng tạo hơn, lớn
hơn của nó.
Mật tông nói: Dục
là bậc thang thấp nhất của năng lượng dục, của dâm dục. Nếu bạn đi vào trong nó
với nhiều nhận biết hơn và bạn tìm trong nó sâu sắc, bạn sẽ thấy khả năng cao
nhất, samadhi, ẩn nấp trong nó.
Dục giống như
samadhi bị rơi vào trong bùn; nó giống như viên kim cương bị rơi vào bùn. Bạn
lau sạch viên kim cương, bùn không thể phá huỷ được nó. Bùn chỉ trên bề mặt; bạn
lau sạch kim cương và nó lại ánh lên với tất cả vẻ rực rỡ của nó và tất cả niềm
vinh quang của nó.
Trong dục có ẩn
dấu kim cương. Trong tình yêu có Thượng đế ẩn mình. Khi Jesus nói Thượng đế là
tình yêu, ông ấy có thể đã nhận được ý tưởng này đâu đó từ Mật tông, bởi vì Thượng
đế của người Do Thái không phải là tình yêu chút nào; điều đó không thể tới từ
truyền thống Do Thái được. Thượng đế của người Do Thái là một Thượng đế rất giận
dữ.
Thượng đế của
người Do Thái nói, "Ta rất ghen tị, ta rất giận dữ, và nếu ngươi chống lại
ta, ta sẽ trả thù." Thượng đế của người Do Thái là một Thượng đế rất độc
đoán. Tình yêu không khớp với ý tưởng Do Thái. Từ đâu mà Jesus có được ý tưởng
rằng Thượng đế là tình yêu? Mọi khả năng là ở chỗ điều đó tới qua trường phái Mật
tông của Ấn Độ, là ở chỗ nó lan truyền từ những người mật tông.
Saraha đã ở đó
ba trăm năm trước Jesus. Ai biết được, có thể đó chính là Saraha và ý tưởng của
Saraha đã du hành đi. Có những lí do tuyệt đối để nghĩ như vậy. Có mọi khả năng
về việc tới Ấn Độ của Jesus, có mọi khả năng của những sứ giả lan từ Ấn Độ sang
Israel.
Nhưng một điều
là chắc chắn, rằng chính Mật tông đã nhìn Thượng đế như năng lượng tình yêu.
Nhưng người Ki tô giáo đã bỏ lỡ. Ngay cả Jesus cũng đã cho hướng dẫn rằng Thượng
đế là tình yêu - họ đã bỏ lỡ. Họ đã diễn giải điều đó như việc yêu Thượng đế; họ
bỏ lỡ nó. Jesus không nói Thượng đế là việc yêu, Jesus nói Thượng đế là tình
yêu, Thượng đế tương đương với tình yêu. Nó là một công thức: Tình yêu là tương
đương với Thượng đế. Nếu bạn đi sâu vào tình yêu, bạn sẽ tìm thấy Thượng đế, và
không có cách nào khác để tìm thấy Thượng đế.
Ong biết rằng
trong hoa
Mật có thể được
tìm thấy.
Rằng luân hồi
và niết bàn
Không phải là
hai
Làm sao người bị
lừa
Bao giờ hiểu được?
Ai là những người
bị lừa dối này, những con ếch này? Những nhà khổ hạnh, cái gọi là các mahatmas,
những người cứ phủ nhận thế giới này bởi vì họ nói Thượng đế chống lại thế giới.
Điều này là ngu xuẩn! Nếu Thượng đế chống lại thế giới này, thế thì sao ông ấy
cứ tạo ra nó? Ông ấy có thể đơn giản dừng điều đó lại bất kì lúc nào nếu ông ấy
chống lại nó như thế. Nếu ông ấy đồng ý với các mahatma của bạn, thế thì ông ấy
đã dừng điều đó lại từ lâu trước đây rồi. Nhưng ông ấy cứ sáng tạo ra. Ông ấy
dường như không chống lại nó, ông ấy dường như hoàn toàn ủng hộ nó.
Mật tông nói
Thượng đế không chống lại thế giới này: luân hồi và niết bàn không phải là hai,
chúng là một. Nhà khổ hạnh đấu tranh với năng lượng dục, và qua việc tranh đấu
đó ông ta bắt đầu rời xa khỏi Thượng đế, rời xa khỏi cuộc sống, rời xa khỏi lực
sống của cuộc sống. Và thế thì có suy đồi... nhất định là như vậy. Bạn càng
tranh đấu với cái gì đó, bạn càng trở nên bị suy đồi hơn. Và thế thì bạn bắt đầu
tìm ra thủ đoạn, cửa sau để đi vào nó lần nữa.
Cho nên người
khổ hạnh, trên bề mặt, tranh đấu với dục, tranh đấu với cuộc sống, còn sâu bên
dưới bắt đầu mơ tưởng về nó. Ông ta càng kìm nén, ông ta càng trở nên bị ám ảnh
bởi nó; người khổ hạnh là người bị ám ảnh. Người mật tông là người rất tự
nhiên, người đó không có ám ảnh. Nhưng điều nực cười là ở chỗ người khổ hạnh
nghĩ rằng người mật tông bị ám ảnh, người khổ hạnh nghĩ rằng người mật tông nói
về dục - "Sao họ nói về dục?" - nhưng ám ảnh thực là ở người khổ hạnh.
Người đó không nói về nó - hay cho dù người đó có nói về nó thì người đó cũng
chỉ nói để lên án nó - nhưng người đó liên tục nghĩ về nó. Tâm trí người đó cứ
quay cuồng quanh nó.
Khó mà đi chống
lại Thượng đế. Cho dù bạn có đi, thất bại của bạn là chắc chắn. Tâm trí sẽ tìm
cách này cách khác.
Tôi đã từng
nghe...
Một người Do
Thái đang nói chuyện với một người bạn và nói, "Tớ thích ngủ một mình; tớ
tin vào vô dục. Trong thực tế kể từ khi tớ lấy vợ, vợ tớ và tớ đã có phòng tách
riêng."
"Nhưng,"
người bạn nói, "giả sử trong đêm cậu cảm thấy rằng cậu muốn chút tình yêu,
cậu làm gì?"
"Ô,"
người kia đáp, "tớ huýt sáo."
Người bạn ngạc
nhiên, nhưng cứ hỏi, "Nhưng giả sử theo cách khác thì vợ cậu cảm thấy rằng
cô ấy muốn chút ít việc yêu - thì điều gì xảy ra?"
"Ô,"
anh ta đáp, "cô ấy tới phòng tớ và gõ cửa, và khi tớ trả lời thì cô ấy
nói, 'Ikey, anh huýt sáo đấy à?'"
Dù bạn có ở
cùng phòng hay không, có thành vấn đề gì? Tâm trí sẽ tìm ra cách nào đó - tâm
trí sẽ bắt đầu huýt sáo. Và người đàn bà tất nhiên không thể huýt sáo được; cô ấy
được trông đợi không thô tục tới mức huýt sáo. Nhưng cô ấy có thể tới và gõ cửa
và có thể hỏi, "Ikey, anh huýt sáo đấy à?"
Tâm trí rất
tinh ranh. Nhưng một điều là chắc chắn, bạn không thể trốn thoát khỏi thực tại
của cuộc sống. Nếu bạn cố gắng thoát, tâm trí tinh ranh của bạn sẽ tìm ra cách,
và sẽ trở nên tinh ranh hơn. Và bạn sẽ bị vào bẫy của tâm trí nhiều hơn. Tôi
không thể thấy người khổ hạnh nào đã từng nhận ra chân lí - không thể được. Người
đó phủ nhận cuộc sống, làm sao người đó có thể nhận ra được chân lí?
Chân lí phải hiện
hữu sống động, chân lí phải hiện hữu cùng với cuộc sống, trong cuộc sống. Đó là
lí do tại sao với các sannyasins của mình, tôi không bao giờ nói rời bỏ cuộc sống.
Tôi nói hiện hữu trong cuộc sống, hiện hữu toàn bộ trong nó! Có cánh cửa, đâu
đó trong bãi chợ.
Luân hồi và niết
bàn đó không phải là hai, Saraha nói, làm sao người bị lừa dối hiểu được? Nhưng
ếch thì sao? - làm sao chúng hiểu được? Trở thành ong đi!
Để điều ghi nhớ
sâu sắc này trong bạn, ít nhất là đối với các sannyasins của tôi: Trở thành
ong, đừng trở thành ếch. Những đoá hoa này của cuộc sống đang mang mật của Thượng
đế... hút lấy!
Khi người bị lừa
soi gương
Họ thấy khuôn mặt,
không là sự phản xạ.
Cho nên tâm trí
biết chân lí thì phủ nhận
Dựa trên cái không
thực.
Tâm trí giống
như tấm gương: nó chỉ phản xạ. Nó chỉ có thể cho bạn kinh nghiệm hình bóng,
chưa bao giờ nguyên gốc cả. Nó giống như cái hồ... và bạn có thể thấy trăng
tròn được phản xạ, nhưng phản xạ không phải là trăng thực. Và nếu bạn bắt đầu nghĩ
rằng phản xạ là trăng thực, bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy trăng thực cả.
Saraha nói: Khi
người bị lừa dối nhìn vào gương, họ thấy khuôn mặt, không phải là phản xạ. Đâu
là khác biệt trong việc thấy khuôn mặt và không là phản xạ? Khi bạn bắt đầu thấy
khuôn mặt trong gương, bạn bị lừa; bạn nghĩ, "Đó là khuôn mặt mình."
Đấy không phải là khuôn mặt bạn, đấy chỉ là phản xạ của khuôn mặt bạn. Trong tấm
gương không thể có khuôn mặt thật được, chỉ có phản xạ.
Tâm trí là tấm
gương! Nó phản xạ thực tại, nhưng nếu bạn bắt đầu tin trong phản xạ đó, bạn bắt
đầu tin vào điều không thật, vào hình ảnh. Và chính niềm tin đó trở thành rào chắn.
Saraha nói: Nếu bạn muốn biết chân lí, gạt tâm trí sang bên - bằng không thì nó
sẽ cứ phản xạ và bạn sẽ cứ nhìn vào sự phản xạ. Gạt tâm trí sang bên đi! Nếu bạn
thực sự muốn biết cái thực, thế thì đi ngược lại việc phản xạ.
Chẳng hạn, bạn
thấy trăng tròn được phản xạ trong hồ. Bây giờ bạn đi đâu để tìm trăng tròn? Bạn
có định nhảy xuống hồ không? Bạn có định chìm sâu vào trong hồ để tìm trăng
không? Thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nó cả. Bạn thậm chí có thể còn bỏ
lỡ cả bản thân mình. Nếu bạn thực sự muốn thấy trăng thật, thế thì đi ngược lại
với sự phản xạ, chỉ ngược lại theo hướng đối diện - thế thì bạn sẽ thấy trăng.
Đừng đi vào tâm trí, đi ngược hẳn lại với tâm trí.
Tâm trí phân
tích; bạn tổng hợp. Tâm trí tin vào logic; bạn đừng tin vào logic. Tâm trí rất
tính toán, tâm trí rất tinh ranh; bạn hồn nhiên. Đi theo hướng đối lập! Tâm trí
yêu cầu bằng chứng, lập luận; bạn đừng yêu cầu bằng chứng và lập luận. Đó là ý
nghĩa của tin cậy: đi theo hướng đối lập. Tâm trí là kẻ hoài nghi lớn. Nếu bạn
hoài nghi, bạn đi theo tâm trí, nếu bạn không hoài nghi, bạn đi ngược lại tâm
trí. Đừng hoài nghi! Cuộc sống là để được sống, không để bị hoài nghi. Cuộc sống
là để được tin cậy. Đi tay nắm tay với chân lí và bạn sẽ tìm thấy chân lí: đi với
hoài nghi và bạn sẽ đi lạc lối.
Tìm kiếm chân
lí là tìm kiếm theo hướng đối lập với tâm trí bởi vì tâm trí là tấm gương, nó
phản xạ. Và gạt tâm trí sang một bên chính là điều thiền tất cả là gì; gạt ý
nghĩ sang bên, gạt suy nghĩ sang bên, gạt tâm trạng sang bên, là điều thiền tất
cả là gì.
Khi bạn có thể
nhìn vào trong thực tại không có ý nghĩ phản xạ nó, chân lí là ở đây bây giờ;
thế thì bạn là chân lí và tất cả là chân lí. Tâm trí là khả năng lớn của lừa dối,
ảo tưởng, của mơ mộng.
Mặc dầu hương của
hoa
Không thể được
chạm tới,
Vẫn tràn ngập
khắp tất cả
Và cảm nhận được
ngay lập tức.
Cho nên bằng việc
tự hiện hữu vô hình mẫu
Nhận ra tính
tròn
Của vòng tròn
huyền môn.
Một lời kinh vĩ
đại! Mặc dầu hương của hoa không thể được chạm tới - bạn không thể chạm được và
hương của hoa - nó vẫn tràn ngập khắp tất cả và cảm nhận được ngay lập tức...
nhưng bạn có thể ngửi nó. Bạn không thể thấy được nó nhưng bạn có thể ngửi nó,
nó bao quanh bạn. Bạn không thể chạm được vào nó; nó là không sờ được, nó là
không chạm được. Và nếu bạn lấy tính sờ mó được làm tiêu chuẩn chân lí, thế thì
bạn sẽ nói nó là không thật. Chân lí là không thể nghĩ được. Nếu bạn nghĩ, bạn
sẽ lỡ.
Chân lí có thể
được kinh nghiệm, nhưng không thể được biết. Chân lí có thể được nhận ra, nhưng
không kết luận. Cũng giống như hương của hoa không thể thấy được bằng mắt,
không thể nghe được bằng tai... Nếu bạn lấy nó làm tiêu chuẩn, "Chừng nào
mình còn chưa nghe được mùi ấy thì mình sẽ không tin, chừng nào mình còn chưa
thấy được mùi đó thì mình sẽ không tin," thế thì bạn đang tạo ra rào chắn
và bạn sẽ không bao giờ đi tới biết nó.
Và dần dần, nếu
bạn không tin nó, nếu bạn không tin chút nào, bạn sẽ làm mất khả năng ngửi nó bởi
vì bất kì khả năng nào mà không được dùng, không được tin cậy, ở ngoài việc
dùng, đều dần dần trở nên bị què quặt. Tin cậy là một khả năng! Bạn đã từng sống
cùng với hoài nghi lâu thế, đã kết hợp với hoài nghi lâu tới mức bạn nói,
"Mình trước hết cần bằng chứng hợp lí; mình hoài nghi." Cho nên bạn vẫn
còn hoài nghi, và chân lí chỉ có thể được biết qua tin cậy, cũng hệt như hương
thơm chỉ có thể được biết qua việc ngửi. Nó có đó nếu bạn ngửi. Nếu bạn tin cậy,
chân lí có đó.
Shraddha - tin cậy,
đức tin, đơn giản chỉ ra một điều: rằng khả năng để biết chân lí là không hoài
nghi, là không ngần ngại. Nếu bạn nhấn mạnh vào hoài nghi, bạn vẫn còn với hoài
nghi.
Nó tràn ngập khắp
tất cả và cảm nhận được ngay lập tức.
Với tin cậy nó
có đó ngay lập tức, tức khắc! Không một khoảnh khắc bị mất. Cho nên bằng việc tự
hiện hữu vô hình mẫu...
Và tin cậy là
gì? Tôi chưa bao giờ bắt gặp một định nghĩa nào hay như thế về tin cậy: Cho nên
bằng việc tự hiện hữu vô hình mẫu... Bạn đừng tạo hình mẫu cho bản thân mình! Tất
cả mọi việc tạo hình mẫu đều là một loại bọc giáp, tất cả mọi việc tạo hình mẫu
đều là một loại bảo vệ; tất cả mọi việc tạo hình mẫu đều là cách tránh né. Cởi
mở, đừng bị lập hình mẫu.
Cho nên bằng việc
tự hiện hữu vô hình mẫu... nếu bạn vô hình mẫu, nếu bạn đơn giản cởi mở, bạn
không có áo giáp nào, bạn không tự bảo vệ mình bằng logic, hoài nghi, thế này
thế nọ, bạn đơn giản mong manh... vô hình mẫu, không bảo vệ, dưới bầu trời lồng
lộng, mọi cánh cửa đều mở... Để cho bạn bè hay kẻ thù đi vào, bất kì ai, nhưng
tất cả các cánh cửa đều mở. Trong tính cởi mở đó bạn là tự hiện hữu, bạn trong
trạng thái của cái như vậy, bạn là trống rỗng, bạn là cái không, và bạn sẽ nhận
ra chân lí là gì.
Nhận ra tính
tròn của vòng tròn huyền môn.
Và thế thì bạn
sẽ thấy rằng từ cái như vậy mà hai vòng tròn nảy sinh: vòng tròn này của niết
bàn, vòng tròn kia của luân hồi. Hai con sóng đang dâng lên trong đại dương này
của cái như vậy: một con sóng của vật chất, con sóng kia của tâm trí - nhưng cả
hai đều là sóng, và bạn ở ngoài cả hai. Bây giờ không có phân chia, không có
phân biệt. Chân lí không là tâm trí lẫn vật chất, chân lí không là luân hồi lẫn
niết bàn, chân lí không ô uế chẳng linh thiêng; tất cả mọi phân biệt đều đã biến
mất.
Nếu bạn mang
tâm trí mình tới thực tại tối thượng, nó sẽ không cho phép bạn thấy thực tại tối
thượng. Nó sẽ đem cái gì đó của tính sai lạc của riêng nó cùng nó.
Tôi đã đọc một
giai thoại... thiền về nó.
Một người tới
Ngọc Môn và khi được hỏi tên đã đáp, "Charlie Graball."
"Tôi cho rằng
chúng tôi đã không chú ý gì tới việc ông tới," ông ta được thông báo.
"Ông làm nghề gì trong cuộc sống trần gian?"
"Buôn kim
loại vụn," ông khách nói.
"Ô,"
thiên thần nói, "Tôi sẽ đi hỏi." Khi ông ta quay lại, Charlie Graball
đã biến mất. Cả Ngọc Môn cũng biến mất.
Charlie
Graball, buôn kim loại vụn... bạn mang thói quen của mình tới tận cùng.
Có thể tâm trí
là hữu dụng khi có liên quan tới thế giới người làm. Có thể tâm trí là hữu dụng
khi có liên quan tới việc suy nghĩ về vật chất. Nhưng mang tâm trí này tới cốt
lõi bên trong nhất của thực tại của bạn là nguy hiểm; nó sẽ quấy rối ở đó.
Để tôi nói điều
đó theo cách này: hoài nghi là có ích trong thế giới khoa học. Trong thực tế
không có hoài nghi thì sẽ không có khoa học; hoài nghi chính là phương pháp luận
của khoa học. Bởi vì khoa học đã trở thành thịnh hành thế, đã thành công thế
trong quá khứ, nên dường như là hoài nghi đã trở thành phương pháp luận duy nhất
cho tìm tòi. Cho nên khi bạn đi vào, bạn mang hoài nghi - điều đó là không phải.
Khi bạn đi ra, hoài nghi là có ích; khi bạn đi vào nội tâm, hoài nghi là rào chắn.
Tin cậy đi, càng ngày càng ít hoài nghi... Nếu bạn muốn đi vào, ngày một ít
hoài nghi đi, và để có một khoảnh khắc khi không hoài nghi nào còn lại. Trong
trạng thái vô hoài nghi đó, bạn sẽ ở trung tâm. Nếu bạn muốn biết thế giới bên
ngoài, tin cậy sẽ không có ích.
Điều đó cũng đã
xảy ra trong quá khứ ở phương Đông. Chúng ta đi tới biết thực tại bên trong qua
tin cậy, cho nên chúng ta nghĩ qua tin cậy chúng ta cũng có thể tạo ra khoa học.
Chúng ta đã chưa bao giờ có khả năng tạo ra khoa học. Tại phương Đông, chúng ta
không thể tạo ra khoa học nào lớn lao - chẳng có gì để nói về điều đó, chẳng gì
nhiều. Bởi vì chúng ta đã đi vào bên trong bằng tin cậy, cho nên chúng ta nghĩ
tin cậy là phương pháp duy nhất để tìm tòi - điều đó là ảo tưởng. Chúng ta đã
thử tin cậy vào các sự vật khách quan bên ngoài và chúng ta đã thất bại; phương
Đông đã thất bại khi có liên quan tới khoa học. Phương Tây đã thành công qua
hoài nghi trong khoa học; bây giờ lại cùng ảo tưởng - họ nghĩ hoài nghi là
phương pháp hợp lệ, đúng duy nhất để biết. Nó không phải vậy. Bây giờ, nếu bạn
cố gắng hoài nghi trong thế giới bên trong, bạn sẽ thất bại chắc chắn như
phương Đông đã thất bại trong trưởng thành khoa học.
Hoài nghi là tốt
với đối thể, tin cậy là tốt với chủ thể. Hoài nghi là tốt nếu bạn đi xa hơn khỏi
trung tâm của mình hướng tới ngoại vi, tin cậy là tốt nếu bạn đi hướng tới
trung tâm xa khỏi ngoại vi. Tin cậy và hoài nghi giống như đôi cánh.
Nhân loại sắp
được sinh ra trong tương lai sẽ có cả hai khả năng hoài nghi và tin cậy cùng
nhau. Điều đó sẽ là sự tổng hợp cao nhất: sự tổng hợp của Đông và Tây, sự tổng
hợp của khoa học và tôn giáo. Khi con người có cả hai khả năng hoài nghi và tin
cậy... khi hoài nghi được cần tới, khi người đó đi ra ngoài, người đó hoài
nghi; còn khi tin cậy được cần tới, người đó gạt hoài nghi sang bên và tin cậy.
Và một người có khả năng của cả hai sẽ vượt ra ngoài cả hai, chắc chắn vượt ra
ngoài cả hai, bởi vì người đó sẽ dùng cả hai và người đó sẽ biết rằng mình là
tách biệt với cả hai. Đó là siêu việt. Việc vượt ra ngoài cả hai đó là tự do vĩ
đại. Đích xác điều đó là niết bàn là gì: tự do vĩ đại.
Thiền về những
lời kinh này. Saraha đang nói những điều vĩ đại trong những lời đơn giản; ông ấy
đang bầy tỏ sáng suốt lớn lao của mình cho nhà vua. Bạn có thể cũng tham dự vào
sáng suốt lớn lao này. Bạn có thể đi rất sâu vào trong thực tại con người với
Saraha.
Và bao giờ cũng
nhớ, đó là con đường duy nhất đi tới thực tại tối thượng. Thực tại con người là
con đường duy nhất đi tới thực tại tối thượng, bởi vì đó là nơi bạn hiện hữu.
Người ta có thể tiến lên chỉ từ nơi người ta hiện hữu. Dục là thực tại của bạn,
samadhi có thể được tiếp cận tới thông qua nó. Thân thể là thực tại của bạn, vô
thân thể có thể được tiếp cận tới qua nó. Tính hướng ngoại là thực tại của bạn,
tính hướng nội có thể được tiếp cận tới qua nó.
Mắt bạn đang
nhìn ra ngoài; chúng có thể được quay vào bên trong.
Xem tiếp – Quay
về Mục lục